Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Ngày 07 tháng 03 năm 2020.
Nội dung
Dẫn nhập
I. Bản
văn và bối cảnh
Mc 2,1-13
1. Bản văn Mc 2,1-13
2. Bối cảnh văn chương
a) Cấu trúc Mc 2,1–3,6
b) Ba chi tiết liên hệ
trước đoạn văn 2,1-13
c)
Hai ý tưởng liên hệ sau
đoạn văn 2,1-13
d) Một đề tài liên hệ trước và sau đoạn văn 2,1-13
II. Đặc điểm văn chương và
cấu trúc Mc 2,1-13
1. Đặc điểm văn chương
2. Cấu trúc Mc 2,1-13
III. Phân tích một số đề tài
1. “Này con, các tội của con đã được tha” (2,5b)
2. Một mình Thiên Chúa có quyền tha tội (2,7c)
3. Hãy trỗi dậy, vác lấy chõng và
đi về nhà (2,11)
4. Sửng sốt và
tôn vinh Thiên Chúa (2,12b)
Kết luận
Dẫn
nhập
Trình thuật Mc 2,1-13 thường được gọi là “Đức Giê-su chữa lành
người bại liệt”. Cách gọi này không đầy đủ và có nguy cơ che khuất đề tài chính
yếu của đoạn văn: tranh luận về quyền tha tội và Đức Giê-su bày tỏ Lời quyền
năng qua việc chữa lành. Bài viết tìm hiểu “lời tha tội” và “lời chữa lành” trong
đoạn văn trên qua ba mục: (I) bản văn và bối cảnh Mc 2,1-13; (II) đặc
điểm văn chương và cấu trúc Mc
2,1-13; (III) phân tích một số đề tài.
I.
Bản văn và bối cảnh Mc 2,1-13
Trước hết
là phần trích dẫn bản văn Mc 2,1-13, sau đó đặt đoạn văn này vào bối cảnh văn
chương qua việc tìm hiểu cấu trúc đoạn văn dài 2,1–3,6 cũng như các liên hệ trước
và sau đoạn văn 2,1-13.
1. Bản văn Mc 2,1-13
Người thuật chuyện kể ở 2,1-13: “2,1 Sau nhiều
ngày, Người (Đức Giê-su) lại vào Ca-phác-na-um. Nghe biết Người ở nhà, 2 người
ta tụ tập lại đông đến nỗi không có chỗ chứa, ở cửa cũng không còn chỗ, và
Người nói Lời cho họ. 3 Người ta đem đến cho Người một kẻ bại liệt do bốn người
khiêng. 4 Không thể đưa đến cho Người vì đám đông, họ dỡ mái nhà, phía trên chỗ
của Người, thành một lỗ hổng, họ thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. 5
Thấy lòng tin của họ, Đức Giê-su nói với người bại liệt: ‘Này con, các tội của con
đã được tha.’ 6 Nhưng có mấy kinh sư đang ngồi đó, họ nghĩ trong lòng họ: 7 ‘Tại
sao Ông này nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng. Ai có thể tha tội, ngoài một
mình Thiên Chúa?’ 8 Ngay lập tức, Đức Giê-su
biết trong tâm trí của Người là họ đang nghĩ trong lòng họ như thế, Người
nói với họ: ‘Tại sao các ông nghĩ những điều ấy trong lòng các ông? 9 Điều nào
dễ hơn: Nói với người bại liệt: ‘Các tội của con đã được tha’, hay nói: ‘Hãy đứng dậy, hãy vác chõng của con và
hãy bước đi’? 10 Nhưng để các ông biết rằng: Con Người có quyền tha tội
dưới đất – người nói với người bại liệt
–, 11 Ta bảo con, hãy đứng dậy, hãy vác lấy chõng của con và
hãy đi về nhà của con.’ 12 Anh ta trỗi dậy và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến mọi người sửng
sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ nói rằng: ‘Chúng ta chưa bao giờ thấy như
thế.’ 13 Người lại đi ra bờ Biển Hồ. Tất cả đám đông đến với Người, và Người
dạy dỗ họ.” (Xem Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt).
2. Bối cảnh văn chương
Đoạn văn 2,1-13 thuật
lại cuộc tranh luận đầu tiên trong năm tranh luận với những kẻ chống đối Đức Giê-su
trong phần 2,1–3,6.
Đoạn văn 2,1-13 có nhiều chi tiết liên kết với những đoạn văn trước và sau nó. Bối cảnh văn chương đoạn văn này được trình
bày qua bốn điểm: (a) cấu trúc tổng quát năm tranh luận 2,1–3,6;
(b) ba chi tiết liên hệ trước đoạn văn 2,1-13; (c) hai ý tưởng liên hệ sau đoạn
văn 2,1-13; (d) một đề tài liên hệ trước và sau đoạn văn 2,1-13.
a) Cấu
trúc Mc 2,1–3,6
Đoạn văn dài 2,1–3,6 trình bày năm tranh luận ở Ga-li-lê
có cấu trúc tổng quát và chi tiết như sau:
- Về cấu trúc tổng quát, đoạn văn 2,1–3,6 chia thành
5 đoạn văn và cấu trúc theo dạng đồng tâm A, B, C, B’, A’, (xem C. Focant, L’évangile selon Marc,
(CB.NT 2), Paris, Le Cerf, 2004, p. 104-106):
- Về chi tiết, mỗi trình thuật trong năm đoạn văn trên
có dàn bài chung với 5 yếu tố: “sự kiện”, “cách phản đối”, “người bị phản đối”,
“lý do”, “người chống đối”. Qua năm cuộc tranh luận, tác giả trình bày giáo huấn
của Đức Giê-su (ĐGS) cho độc giả:
Đoạn văn 2,1-13 là tranh luận đầu tiên với các
kinh sư về quyền tha tội. Các kinh sư chưa nói ra, chỉ mới suy nghĩ trong lòng
mà Đức Giê-su đã biết. Chi tiết này đề cao sự hiểu biết của Đức Giê-su.
b) Ba chi tiết liên hệ
trước đoạn
văn 2,1-13
Đoạn văn 2,1-13 có liên hệ với trình thuật trước đó
qua ba chi tiết: địa danh Ca-phác-na-um, danh từ “nhà” và thành công của Đức
Giê-su.
+ Ca-phác-na-um (Kapharnaoum). Địa danh này
xuất hiện 3 lần trong Tin Mừng Mác-cô (1,21;
2,1; 9,33).
Lần nhất ở 1,21 và thứ hai ở 2,1 cho phép phân đoạn các đoạn văn. Ca-phác-na-um
mở đầu hai đoạn văn: (a) 1,21-45: hoạt động và thành công của Đức Giê-su và (b)
2,1–3,6: năm tranh luận ở Ga-li-lê.
+ Danh từ “nhà” (oikia). Từ này nói về nhà
mẹ vợ Si-môn bên cạnh hội đường mà Đức Giê-su và các môn đệ đã vào (1,29). Mở
đầu ch. 2, Đức Giê-su và các môn đệ trở về “nhà (oikos)” (2,1), có thể đây
là “nhà” đã nói đến ở 1,29. Tin Mừng Mác-cô dùng hai danh từ khác nhau có nghĩa
“nhà” với số lần đáng kể: (1) Danh từ “nhà” (oikia), giống cái, xuất hiện 18
lần: 1,29; 2,15;
3,25a.25b.27a.27b; 6,4.10; 7,24; 9,33; 10,10.29.30; 12,40; 13,15.34.35; 14,3. (2)
Danh từ “nhà” (oikos), giống đực, xuất hiện 13 lần: 2,1.11.26; 3,20; 5,19.38; 7,17.30;
8,3.26; 9,28; 11,17a.17b. Từ “nhà” (oikia) ở 9,33; 7,24; 10,10 cho biết “Đức Giê-su vào nhà”, nhưng không
nói rõ nhà của ai. Riêng ở 9,33, nói đến “nhà ở Ca-phác-na-um”, có thể là nhà
Si-môn. Ở các câu 7,24; 10,10, bản văn chỉ nói: “về đến nhà”.
+ Thành công của Đức Giê-su. Đoạn
văn 2,1-13 tiếp nối đề tài thành công của Đức Giê-su
ở 1,21-45. Nếu như người thuật chuyện kể ở 1,32-33: “32 Chiều đến, khi mặt trời
đã lặn, người ta đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám, 33 cả
thành tụ họp lại trước cửa (thura)” thì ở 2,1-2 “cửa nhà” đã trở thành
chật hẹp và thiếu chỗ. Người thuật chuyện cho biết ở 2,2: “Nghe tin Người [Đức
Giê-su] ở nhà, người ta tụ tập lại, đông đến nỗi không có chỗ chứa, ở cửa cũng
không còn chỗ.” Ở 1,33, cửa nhà là nơi dân chúng tụ lại, đến 2,2, người ta tràn
vào trong nhà mà vẫn thiếu chỗ, đến nỗi bít cả lối đi. Điều này diễn tả thành
công của Đức Giê-su, đồng thời tạo ra một khoảng không gian khép kín, không ai
có thể đi lại hay ra vào. Không gian kín này ở trong trình trạng bế tắc, bế quan
tỏa cảng. Sự bế tắc sẽ được khai mở vào cuối trình thuật khi người bại liệt “đứng
dậy và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người” (2,12).
c)
Hai ý tưởng liên hệ sau đoạn văn 2,1-13
Hai đề tài được bàn đến sau đoạn văn 2,1-13 là danh
từ “cửa” (thura) và
động từ “trỗi dậy” (egeirô).
+ “Cửa nhà” và “cửa mộ”. Danh từ “cửa” (thura),
xuất hiện 6 lần trong Tin Mừng Mác-cô: 1,33; 2,2; 11,4; 13,29; 15,46; 16,3. Trong đó 4 lần chỉ cửa nhà (1,33; 2,2; 11,4; 13,29) và 2
lần chỉ cửa mộ (15,46; 16,3). Đầu Tin Mừng Mác-cô cửa nhà bị bít kín, nối kết
với cuối Tin Mừng cửa mộ được bít kín bằng một tảng đá lớn. Đầu Tin Mừng, Đức
Giê-su với uy quyền của Người, khai mở lối đi từ trong nhà đi ngang qua cửa để
ra bên ngoài, thì cuối Tin Mừng Đức Giê-su Phục Sinh đã mở tung cửa mộ để chính
Người đi ra khỏi mộ.
+ Động từ “egeirô” (trỗi
dậy). Người bại liệt “trỗi dậy” từ sự bại liệt của mình và Đức Giê-su “trỗi
dậy” từ sự chết của Người. Động từ “egeirô” có nghĩa: “trỗi dậy”, “đứng dậy”, “thức
dậy”. Tin Mừng Mác-cô dùng 19 lần động này: 1,31;
2,9.11.12; 3,3; 4,27.38; 5,41; 6,14.16; 9,27; 10,49; 12,26; 13,8.22; 14,28.42;
16,6.14 với 6 nghĩa: (1) Trỗi dậy khỏi cơn bệnh, 4 lần: Mẹ vợ của Phê-rô trỗi
dậy (1,31); người bại liệt trỗi dậy (2,9.11.12). (2) Trỗi dậy sau khi thần câm
điếc xuất ra, 1 lần: đứa bé trỗi dậy (9,27). (3) Đứng dậy, thay đổi tư thế, 3
lần: Người có tay bị bại đứng dậy (3,3); anh mù Ba-ti-mê đứng dậy (10,49); các môn
đệ đứng dậy (14,42). (4) Trỗi dậy khỏi giấc ngủ, 2 lần: Người gieo giống trỗi dậy
(4,27); Đức Giê-su trỗi dậy (4,38). (5) Nổi lên, dấy lên, 2 lần: các dân tộc dấy
lên (13,8); ki-tô giả, ngôn sứ giả nổi lên (13,22). (6) Trỗi dậy là sống lại, 7
lần: Gio-an Tẩy giả trỗi dậy (6,14.16); bé gái đã chết trỗi dậy (5,41); Đức Giê-su
trỗi dậy (12,26; 14,28; 16,6.14). Động từ “egeirô” diễn tả Đức Giê-su Phục Sinh. Điều này cho
phép hiểu sự kiện người bại liệt “trỗi dậy” (2,12) ám chỉ sự sống mới Đức
Giê-su ban tặng. Con người được trỗi dậy, nối kết với sự sống lại, sự trỗi dậy
của Đức Giê-su trong biến cố Phục Sinh. Như thế, được Đức Giê-su chữa lành, được
Đức Giê-su làm cho trỗi dậy là nhận được từ nơi Người sự sống mới, sự sống đích
thực.
d) Một đề tài liên hệ trước và sau đoạn văn 2,1-13
Đề tài “giảng dạy”, nói đến ở đầu (2,2) và cuối (2,13)
đoạn văn 2,1-13, là đề tài xuyên suốt Tin Mừng Mác-cô. Danh từ “giảng dạy” (didakhê) xuất hiện 5 lần: 1,22.27;
4,2; 11,18; 12,38 và động từ “dạy” (didaskô) xuất hiện 17 lần: 1,21.22;
2,13; 4,1.2; 6,2.6.30.34; 7,7; 8,31; 9,31; 10,1; 11,17; 12,14.35; 14,49. Đặc
biệt kiểu diễn tả: “Người nói Lời (logon) cho” (2,2) mô tả cách giảng
dạy (cf. 4,33; 8,32). Nếu như người phong hủi được chữa lành ra đi loan truyền
khắp nơi “Lời” (logos) của Đức Giê-su (1,45), thì bây giờ chính Đức Giê-su
nói Lời (logos) cho các thính giả. “Lời” (logos) là nội dung rao
giảng. Trong Tin Mừng Gio-an “Lời” là chính Đức Giê-su: “Lời (logos) có
lúc khởi đầu, và Lời (logos) ở với Thiên Chúa, và Lời (logos) là
Thiên Chúa” (Ga 1,1).
II. Đặc điểm văn chương và cấu trúc Mc 2,1-13
Phần này trình bày đặc điểm văn chương và
cấu trúc chi tiết đoạn văn Mc 2,1-13.
1. Đặc điểm
văn chương
Ba đặc điểm văn chương đoạn văn 2,1-13: (1) giống
nhau giữa 1,21-28 và 2,1-13, (2) nhân vật các kinh sư, (3) đề tài “phạm thượng”.
(1) Mc 2,1-13 giống đoạn văn 1,21-28 (trục xuất
thần ô uế) về ba chi tiết: (a) 2,1-13 bắt đầu (2,2) và kết thúc (2,13) bằng lời
giảng dạy của Đức Giê-su. (b) Nội dung giảng dạy không được nói rõ trong đoạn văn
2,1-13. (c) Nhấn mạnh quyền năng giảng dạy của Đức Giê-su (1,22.27 // 2,10.12).
(2) Ở 1,22, các kinh sư được so sánh với Đức Giê-su
vì Người giảng dạy dân chúng “như một Đấng có uy quyền chứ không như các kinh
sư” (1,22). Tuy nhiên ở 1,21-28 các kinh sư mới chỉ được nói đến chứ chưa xuất
hiện trong bản văn. Trong đoạn văn 2,1-13, lần đầu tiên các kinh sư xuất hiện trong
tư thế đối lập với Đức Giê-su, dù họ mới chỉ chống đối bằng cách “nghĩ trong
lòng” (2,6-7) chứ chưa lên tiếng. Trong đoạn văn tiếp theo (2,14-17) các kinh
sư sẽ lên tiếng chống đối Đức Giê-su (2,16), nhưng họ sẽ nói với các môn đệ để
chống lại Đức Giê-su, chứ chưa trực tiếp bắt bẻ Người. Kể từ ch. 2, khoảng thời
gian Đức Giê-su rao giảng mà không gặp khó khăn đã kết thúc (cuối ch. 1). Trong
những tranh luận tiếp theo đoạn văn 2,1-13 (2,20; 3,6), những kẻ chống đối (các
kinh sư và những người Pha-ri-sêu) kết tội Đức Giê-su ngày càng gay gắt hơn.
(3) Động từ “nói phạm thượng” (blasphêmeô)
xuất hiện 4 lần trong Tin
Mừng Mác-cô (2,7; 3,28b.29; 15,29). Danh từ “lời nói phạm thượng” (hê blasphêmia)
xuất hiện 3 lần trong Mác-cô (3,28a; 7,22; 14,64). Đức Giê-su bị kết tội “nói phạm thượng” ở đầu sứ vụ (2,7)
và đến cuối sứ vụ của Người, vị thượng tế kết luận là Đức Giê-su có “lời nói phạm thượng” (14,64). Ở đoạn
văn 3,28-30, Đức Giê-su nói về mọi tội nói phạm thượng của con người thì được
tha, nhưng ai nói phạm thượng đến Thánh Thần thì chẳng được tha cho đến đời đời
(3,28a.28b.29). Ở 15,29, sau khi Đức Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, những
người qua lại “nói phạm thượng” (blasphêmeô) đến Người, theo nghĩa “nhục
mạ” Người.
2. Cấu trúc Mc 2,1-13
Tìm hiểu cấu trúc sẽ giúp xác định đề tài chính đoạn
văn. 2,1-13 có cấu trúc đồng tâm: A,
B, C, D, D’, C’, B’, A’ như sau: phần dẫn nhập (A. 2,1-2: giới thiệu nơi chốn
và hoàn cảnh) và phần kết rõ ràng (A’. 12,13: thay đổi nơi chốn). Câu kết 2,13
gọi là câu kết mở vì vừa là câu chuyển tiếp, dẫn vào trình thuật Đức Giê-su kêu
gọi ông Lê-vi (2,14), vừa song song với phần dẫn nhập, mô tả hoạt động của Đức
Giê-su xuyên suốt Tin Mừng Mác-cô với 3 yếu tố: (a // a ’) Đức Giê-su hiện
diện; (b // b’) mọi người đến với Người và (c // c’) Người giảng dạy hay “nói
Lời” cho họ.
Phần nội dung 2,3-12 tiến triển qua sáu bước song
song B // B’; C // C’ và D // D’ như sau: B. 2,3-4: người bại liệt xuất hiện; C.
2,5: lời tuyên bố tha tội của Đức Giê-su; D. 2,6-7: sự phản đối thầm lặng của các
kinh sư; D’. 2,8-10: Đức Giê-su nói với các kinh sư; C’. 2,11: Đức Giê-su nói
với người bại liệt; B’. 2,12: chữa lành người bại liệt và phản ứng của đám đông.
Sau đây là bảng cấu trúc chi tiết đoạn văn 2,1-13:
Cấu trúc trên cho thấy không chỉ người bất toại
được tha tội và chữa lành, nhưng biến cố tác động lên tất cả những người đang
chứng kiến. Mới đầu họ là những người riêng lẻ tụ tập lại (2,2) đông đảo, đến
cuối đoạn văn họ trở thành một đám đông đồng lòng, tất cả đồng thanh tôn vinh
Thiên Chúa (2,12). Khởi đầu trình thuật, đám đông ngưỡng mộ Đức Giê-su, đến với
Người nhưng lại thụ động, không lên tiếng, thiếu hợp tác và trở thành yếu tố
gây trở ngại cho người bại liệt vì họ bít kín cửa vào nhà. Cuối trình thuật đám
đông nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su và lên tiếng tôn vinh
Thiên Chúa.
III. Phân tích một số đề tài
Phần sau phân tích bốn đề tài: (1) “Này con, các tội của con đã được tha” (2,5b); (2) một
mình Thiên Chúa có quyền tha tội (2,7c); (3) hãy trỗi dậy, vác lấy chõng và đi về nhà (2,11); (4) sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa (2,12b).
1. “Này con, các tội
của con đã được tha” (2,5b)
Phần đầu trình thuật (2,1-5) kết bằng lời tha tội
(2,5b), dẫn vào phần tố cáo của các kinh sư (2,6-7). Để hiểu tình huống của lời
tuyên bố tha tội phần sau tìm hiểu ba điểm: (1) cách thức giảng dạy của Đức
Giê-su: “nói Lời cho họ” (2,2c); (2) “thấy lòng tin của họ” (2,5a) và (3) lời tuyên
bố tha tội.
(1) Bản văn diễn tả cách rao giảng của Đức Giê-su bằng
câu: “Người nói Lời (logos) cho họ” (2,2c).
Cụm từ “nói lời” (laleô ton logon) còn tìm thấy ở 4,33; 8,32, nhắm đến
hai cách Đức Giê-su giảng dạy: Giảng dạy bằng “dụ ngôn” (parabolê) và giảng
dạy bằng “Lời” (logos), bao gồm lời báo trước biến cố Thương Khó và Phục
Sinh. Có thể hiểu từ “Lời” là thuật ngữ Hội Thánh tiên khởi dùng để nói về công
cuộc rao giảng của các nhà truyền giáo (Cv 4,29.31; 8,25; 11,19; 13,46; 14,25;
16,6.32; Pl 1,14; Hr 13,7). Điều làm người đọc ngạc nhiên là từ đầu Tin Mừng
đến câu 2,2, độc giả chưa biết nội dung “lời” giảng dạy của Đức Giê-su là gì.
Người thuật chuyện cố tình chưa cho biết nội dung, vì đây là giai đoạn giới
thiệu cho độc giả về con người Đức Giê-su. Phần này giúp độc giả trả lời ba câu
hỏi: Đức Giê-su là ai? Hoạt động của Người là gì? Phản ứng của người nghe ra sao?
Nội dung lời rao giảng của Đức Giê-su sẽ được nói đến trong các trình thuật tiếp
theo. Trong đoạn văn 2,1-13, giáo huấn của Đức Giê-su có khả năng làm biến đổi
thái độ của dân chúng. Thật vậy, khởi đầu đám đông thụ động, không hợp tác, họ không
để người bại biệt đến với Đức Giê-su theo cách bình thường nghĩa là theo chiều
ngang. Người bại liệt phải đến với Đức Giê-su theo cách không bình thường (theo
chiều dọc): dỡ mái nhà và thả người bại liệt nằm trên chõng xuống, cách này đòi hỏi nhiều công sức và nguy hiểm. Đám đông
hoàn toàn thay đổi theo chiều tích cực ở cuối đoạn văn (2,12b).
(2) Trước khi tuyên bố lời tha tội, người thuật
chuyên cho biết là Đức Giê-su “thấy lòng tin của họ” (2,5a). Đây là lần duy
nhất trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giê-su nhìn nhận lòng tin (hê pistis) của
người khoẻ mạnh và người bệnh. Ở đây là lòng tin của bốn người khiêng và người
bại liệt. Vậy người bại liệt được tha tội và chữa lành là nhờ lòng tin của mình
và của bốn người khiêng. Lòng tin và sự giúp đỡ của bốn người khiêng phân biệt
với đám đông thụ động gợi đến hoạt động bác ái của cộng đoàn tín hữu lúc Tin
Mừng được viết ra. Họ quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ những người ốm đau. Trong
câu chuyện anh mù Ba-ti-mê (10,47-48), đám đông không những không hợp tác mà
còn quát nạt anh mù để anh ta im lặng, trong khi anh ta cố gắng kêu xin Đức
Giê-su. Trong cả hai trình thuật trên (2,1-13; 10,46-52) đám đông là yếu tố gây
trở ngại. (Xem bài viết: “Tác
giả đối thoại với độc giả”).
Tin Mừng Mác-cô thuật lại một số trường hợp chữa
lành nhờ lòng tin: (1) lòng tin của bốn người khiêng và người bại liệt (2,5); (2)
lòng tin của người phụ nữ bị băng huyết mười hai năm
(5,34); (3) lòng tin của Gia-ia trưởng hội đường góp phần cứu sống con gái của
ông ấy (5,36); (4) lòng tin của cha đứa bé bị thần câm nhập (9,24); (5) lòng
tin của anh mù Ba-ti-mê đã cứu anh (10,52).
(3) Đức Giê-su nói lời tha tội ở 2,5b: “Này con,
các tội của con đã được tha.” Đây là lần duy nhất trong Tin Mừng Mác-cô Đức Giê-su
gọi một người không phải là môn đệ bằng “con” (teknon). Lối xưng hô này
diễn tả tương quan gia đình hay người lớn tuổi nói với người trẻ. Ở 10,24, Đức
Giê-su gọi các môn đệ là “hỡi các con (tekna)” (10,24). Cách xưng hô này
gợi lại tương quan giữa các Ki-tô hữu với Đức Giê-su trong cộng đoàn vào cuối
thế kỷ I, lúc mà Đức Giê-su được tuyên xưng là Chúa, là Con Thiên Chúa theo
nghĩa mạnh, Đức Giê-su là Thiên Chúa (Ga 1,1; 20,28).
Câu chuyện diễn tiến lạ lùng vì không ai xin được
chữa lành cả. Hành động của bốn người khiêng diễn tả ý muốn Đức Giê-su chữa
lành người bại liệt, nhưng thay vì chữa lành Đức Giê-su lại tuyên bố lời tha
tội: “Các tội của con đã được tha” (2,5b).
Với lời này, người thuật chuyện chuyển hướng câu chuyện và dẫn người đọc vào đề
tài chính: sự phản kháng của các kinh sư.
2. Một mình Thiên Chúa có quyền tha tội (2,7c)
Lời phản kháng của các kinh sư ở 2,7: “Tại
sao Ông này nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng. Ai có thể tha tội, ngoài một
mình Thiên Chúa?” là trọng tâm câu chuyện nhằm cho độc giả biết Đức Giê-su là
ai và quyền năng của Người tới đâu. Suy nghĩa của các kinh sư (2,6-7) và trả lời
của Đức Giê-su (2,8-10) được phân tích qua ba điểm: (1) sự xuất hiện và phản ứng
của các kinh sư; (2) nghịch lý làm tỏ lộ căn tính Đức
Giê-su; (3) tha tội và chữa lành, điều nào dễ hơn? (2,9)
(1) Nội dung chính của trình thuật là sự phảng kháng
của các kinh sư, qua đó Đức Giê-su bày tỏ quyền năng và căn tính của Người. Người
thuật chuyện giới thiệu những kẻ chống đối: “Có mấy kinh sư đang ngồi đó” (2,6a).
Đây là lần đầu tiên các kinh sư xuất hiện trong Tin Mừng Mác-cô và cũng là lần
đầu tiên Đức Giê-su bị họ phản đối. Các kinh sư xuất hiện trong bản văn cách lạ
lùng. Tại sao đang ở trong nhà, giả thiết là nhà của mẹ vợ Si-môn mà lại có sự
hiện diện của các kinh sư? Tại sao đến 2,6 các kinh sư mới xuất hiện? Theo mạch
văn, các kinh sư này thuộc nhóm những người đã nói ở 2,2: “Người ta tụ tập lại,
đông đến nỗi không có chỗ chứa, ở cửa cũng không còn chỗ, và Người nói Lời cho
họ.” Nhưng ở 2,2 không có dấu hiệu cho thấy có người chống đối trong nhóm này.
Hơn nữa các kinh sư ở trong tư thế “ngồi” (kathêmai).
Trong bối cảnh người đông đúc, chật chội, mô tả ở 2,2, tư thế “ngồi” gợi đến chỗ
danh dự, dành cho nhân vật quan trọng. Tuỳ mạch văn, động từ “ngồi” (kathêmai)
còn chỉ tư thế của các bậc thầy khi giảng dạy, chẳng hạn ở 4,1, Đức Giê-su ngồi
trên thuyền để giảng dạy. Ở 16,42, Đức Giê-su trả lời vị thượng tế: “Các ông sẽ
thấy Con Người ngự (ngồi, kathêmai) bên hữu Đấng Toàn Năng và đến với
mây trời.”
Theo các kinh sư, khi tha tội cho người bại liệt, Đức
Giê-su nói phạm thượng (2,7b) bởi vì “Ai có quyền tha tội,
ngoài một mình Thiên Chúa?” (2,7c) Điều thú vị trong trình thuật là người thuật chuyện dùng quyền của mình để cho độc
giả biết thông tin này. Cứ sự thường, nghĩ trong lòng, không nói ra thì không nghe,
không biết. Nhưng ở đây, người thuật chuyện có khả năng đọc được suy nghĩ của các
kinh sư!
(2) Câu chuyện diễn ra cách lạ lùng, vì theo diễn
tiến từ đầu đến cuối, những người hiện diện chỉ nghe Đức Giê-su nói ba câu: (1)
lời tuyên bố tha tội (2,5); (2) lời chất vấn các kinh sư (2,9-10); (3) lời ra
lệnh cho người bại liệt (2,11). Câu chuyện kết thúc với lời diễn tả sự sửng sốt
kinh ngạc của mọi người: “Chúng ta chưa bao giờ thấy như thế” (2,12). Như thế,
chỉ một mình Đức Giê-su lên tiếng trong nội dung trình thuật cùng với nhiều chi
tiết lạ lùng nhằm đề cao nhân vật chính là Đức Giê-su và lời của Người.
Điều nghịch lý trong đề tài tranh luận là suy nghĩa
của các kinh sư là đúng: “Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội” (2,7c). Vì
thế khi Đức Giê-su xuất hiện như một con người, Người tuyên bố lời tha tội và
chữa lành để minh chứng Người có quyền tha tội là điều nghịch lý: Đức Giê-su bày
tỏ quyền hành trong dáng vẻ không có quyền hành. Thực vậy, như là con người thì
Đức Giê-su không có quyền tha tội, nhưng Người đã tha tội. Nghĩa là quyền tha
tội thuộc về Thiên Chúa lại ở nơi con người Đức Giê-su. Nghịch lý này giúp độc
giả hiểu căn tính của Đức Giê-su. Qua trình thuật, người thuật chuyện muốn độc
giả nhận ra rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa theo nghĩa mạnh và Người có quyền
tha tội như Thiên Chúa. Như thế, lập luận của các kinh sư theo quan niệm Cựu
Ước: “Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội” không phù hợp nữa. Với sự xuất
hiện của Đức Giê-su, phải nói: Chỉ có Thiên Chúa và Con Thiên Chúa là Đức
Giê-su mới có quyền tha tội.
(3) Người thuật
chuyện kể lại lời Đức Giê-su nói với các kinh sư trước sự hiện diện của đám đông
ở 2,9: “Điều nào dễ hơn: Nói với người bại liệt: ‘Các tội
của con đã được tha’, hay nói: ‘Hãy đứng
dậy, hãy vác chõng của con và hãy bước đi’? Câu hỏi “điều nào dễ hơn?” gợi đến sách Đệ Nhị Luật về phân biệt Ngôn sứ thật và ngôn sứ giả ở Đnl 18,20-22: “‘20
Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói,
hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết.’ 21 Có khi anh sẽ tự hỏi: ‘Làm sao chúng tôi biết được lời nào là lời
ĐỨC CHÚA đã không phán?’ 22 Nếu điều ngôn sứ nói nhân danh ĐỨC CHÚA
không ứng nghiệm, không xảy ra, thì không phải là lời ĐỨC CHÚA đã phán; ngôn sứ
đã nói càn, anh không phải sợ ngôn sứ ấy.’”
Theo lời Đức
Giê-su ở Mc 2,10: “Nhưng để các ông biết rằng: Con Người
có quyền tha tội dưới đất – người nói
với người bại liệt –…”, việc
chữa lành minh hoạ quyền tha tội, nhưng điều này không minh nhiên. Việc chữa lành xác nhận Đức
Giê-su là ngôn sứ vì lời nói được ứng nghiệm (Đnl 18,20-22),
nhưng không minh chứng rõ ràng Người có quyền tha tội. Thực ra, cả hai điều, “tha
tội” và “chữa lành”, không có điều nào dễ cả và chỉ “đức tin” mới cho phép nối
kết hai điều: “chữa lành” và “quyền tha tội”. Cụ thể là các kinh sư không tin vào
Đức Giê-su nên việc chữa lành không thuyết phục được họ là Đức Giê-su có quyền
tha tội.
3. Hãy trỗi dậy, vác lấy chõng và
đi về nhà (2,11)
Ở 2,11, Đức
Giê-su chữa lành người bại liệt bằng lời mở đầu đề cao uy quyền của Người: “Ta
bảo con” kèm theo ba động từ ở lối mệnh lệnh: “hãy trỗi
dậy”, “hãy vác lấy chõng của con” và “hãy
đi về nhà của con”. Động từ “vác” (airô) xuất hiện 4 lần (2,3.9.11.12) trong đoạn văn 2,1-13. Ở 2,3,
động từ này ở dạng thụ động (airomenon), nghĩa là được khiêng (được vác)
bởi bốn người. Cuối trình thuật trình trạng đã thay đổi, từ chỗ được người khác
vác chõng của mình, chuyển sang trạng thái chính anh vác chõng của anh. Đây là
dấu chỉ sự khoẻ mạnh và phục hồi về thể lý (chữa lành) và tâm linh (được tha tội).
Từ chỗ bị lệ thuộc người khác đến khả năng tự lập, anh ta có thể tự lo cho đời mình,
sống trong tương quan và gắn bó với Thiên Chúa.
4. Sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa (2,12b)
Phản ứng của đám đông ở 2,12 diễn tả qua ba giai đoạn:
(1) Thái độ “sửng sốt” trước những gì đang xảy ra, cho thấy điều Đức Giê-su làm
vừa lớn lao, vừa lạ lùng, vừa mới mẻ. Trong mạch văn sự sửng sốt diễn tả niềm vui,
câu chuyện mời gọi độc giả cùng chia sẻ sự ngạc nhiên và vui mừng cùng với dân
chúng. Tin Mừng Mác-cô dùng đề tài ngạc nhiên, sửng sốt để diễn tả niềm vui trước
lời nói và việc làm của Đức Giê-su. Xem bài viết: “Mác-cô,
Tin Mừng của sự ngạc nhiên”.
(2) Tiếp theo là hành động “tôn vinh”. Dân chúng không tôn vinh Đức Giê-su mà “tôn vinh Thiên Chúa”, nghĩa là họ nhận ra phép lạ Đức Giê-su
làm đến từ Thiên Chúa, nên Người là Đấng Thiên Chúa sai đến. Khi “tôn vinh
Thiên Chúa”, họ gián tiếp xác nhận quyền tha tội của Đức Giê-su. Người không
“nói phạm thượng” như các kinh sư đã nghĩ. (3) Phản ứng kết thúc bằng một lời nói:
“Chúng ta chưa bao giờ thấy như thế”.
Họ đã chứng kiến điều mắt chưa hề thấy tai chưa hề nghe. Lời này đề cao quyền năng
Đức Giê-su về hai điều: “lời” tha tội và “lời” chữa lành, minh hoạ cho cách thức
giảng dạy của Đức Giê-su nói đến ở đầu trình thuật: Đức Giê-su “nói Lời” cho họ
(2,2b).
Hành động và lời nói của dân chúng tương phản với nhóm
kinh sư. Họ tố cáo Đức Giê-su trong suy nghĩ trước, và sau đó là im lặng. Ngược
lại dân chúng im lặng khi câu chuyện bắt đầu, nhưng lời quyền năng của Đức Giê-su
làm cho phản ứng của họ trở thành khuôn mẫu cho độc giả khi đọc câu chuyện này.
Kết luận
Bài viết cho thấy phần nào kiểu hành văn sinh động
của Tin Mừng Mác-cô. Đoạn văn 2,1-13 liên kết chặt chẽ với các đoạn văn trước và
sau với những đặc điểm riêng. Phần cấu trúc đoạn văn cho thấy trong tâm của đoạn
văn (D // D’) là điều các kinh sư phản đối trong lòng và câu trả lời của Đức
Giê-su. Phần trọng tâm này ở giữa hai lời Đức Giê-su: lời tha tội (2,5) và lời
chữa lành (2,11). Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng Đức Giê-su gặp sự chống đối
của giới lãnh đạo Do Thái liên quan đến căn tính của Người.
Bản văn không đưa ra câu trả lời cho câu hỏi của Đức
Giê-su ở 2,9: “Điều nào dễ hơn? Bối cảnh trình thuật cho phép độc giả hiểu rằng không có điều nào dễ cả. Trong mạch văn, chữa lành minh
hoạ cho quyền tha tội, tuy nhiên điều này không minh nhiên nên chưa thuyết phục
được những kẻ chống đối. Chỉ niềm tin mới cho phép nối kết quyền tha tội và quyền
năng chữa lành. Bản văn mở đầu bằng đề cao lòng tin của người bại liệt và những
người khiêng anh ta. Nhờ “lòng tin của họ” (2,5a) mà người bại liệt được tha tội
và chữa lành.
Bản văn kết thúc trong tích cực
với sự ngạc nhiên thán phục và tôn vinh Thiên Chúa của dân chúng. Trình thuật
2,1-13 muốn độc giả biết hai điều về Đức Giê-su: Người có
quyền tha tội và có quyền năng làm phép lạ. Nghĩa là Người là Con Thiên Chúa như
đã khẳng định trong câu đầu tiên của sách Tin Mừng ở 1,1: “Khởi đầu tin mừng
của Đức Giê-su Ki-tô [Con Thiên Chúa].” Đoạn văn 2,1-13 định nghĩa “Con Thiên
Chúa” qua quyền tha tội và lời chữa lành. Đức Giê-su là Thiên Chúa vì chỉ có Thiên
Chúa mới có quyền tha tội. Người thuật chuyện mời gọi độc giả nhận ra Đức
Giê-su là ai và phản ứng như dân chúng trong câu chuyện./.
Cảm ơn cha đã chia sẻ. Chúc cha mùa chay thánh thiện và sốt sắng.
Trả lờiXóaTội lỗi và bại liệt
Trả lờiXóaTiến trình của tội lỗi, tương đương tiến trình của bệnh bại liệt
Cám ơn cha về bài viết
Xin Cha giải thích thêm Mc 2,10
Trả lờiXóaCâu này tác giả Tin mừng viết cho cộng đoàn người đã tin, cho độc giả mọi thời đại hay cho những người chưa tin và những người chống đối Đức Giê-su.
Con cám ơn Cha
Cảm ơn độc giả Ngọc Lan đã có câu hỏi hay liên quan đến phương pháp đọc bản văn. Nội dung lời Đức Giê-su ở Mc 2,10-11: “10 Nhưng để các ông biết rằng: Con Người có quyền tha tội dưới đất – người nói với người bại liệt –, 11 Ta bảo con, hãy đứng dậy, hãy vác lấy chõng của con và hãy đi về nhà của con”, dành cho loại độc giả nào? Để thưởng thức ý nghĩa bản văn độc giả có thể đọc câu chuyện qua ba giai đoạn.
Xóa(1) Trước hết là thời Đức Giê-su. Câu 2,10-11 là lời Đức Giê-su nói với các kinh sư đang phản kháng trong lòng. Vậy câu 2,10-11 cho họ thấy “Con Người có quyền tha tội dưới đất”. Tuy nhiên câu chuyện viết ra không phải cho các kinh sư, vì khi có bản văn Tin Mừng thì Đức Giê-su đã chết, sống lại và về Trời, còn các kinh sư trong câu chuyện có lẽ cũng chẳng còn. Vậy cần đặt câu chuyện vào giai đoạn 2.
(2) Thời cộng đoàn Mác-cô vào cuối thế kỷ I. Lời 2,10-11 có thể nhắm đến những kẻ chống đối Đức Giê-su thời cộng đoàn nhưng quan trọng hơn là để cộng đoàn xác tin là Đức Giê-su có quyền tha tội. Nhưng điều này đâu liên quan gì đến độc giả ngày nay. Vì thế cần tìm ý nghĩa câu chuyện ở giai đoạn 3.
(3) Ý nghĩa câu chuyện dành cho độc giả qua mọi thời đại. Bản văn Tin Mừng không dành riêng cho ai cả, một khi đã thành bản văn thì bất kỳ ai, người tin, không tin, chống đối hay dửng dưng... đều có thể đọc bản văn. Ở giai đoạn này, câu 2,10-11 là thông tin quan trọng dành cho độc giả: Đức Giê-su biết được suy nghĩa của người khác và Người có khả năng chữa lành chỉ bằng một lời nói, điều này minh hoạ cho quyền tha tội của Người.
Việc độc giả tin hay không tin, đồng ý hay không đồng ý lại là chuyện khác. Đó là lựa chọn của độc giả khi đối diện với bản văn. Dù lựa chọn thế nào đi nữa thì cũng không làm thay đổi nội dung lời Đức Giê-su ở 2,10-11. Điều quan trọng là độc giả đọc được ý nghĩa của lời này. Đối với đối với độc giả đã tin thì xác tín vào lời Đức Giê-su. Đối với độc giả chưa tin thì 2,10-11 là một lời đề nghị cho biết Đức Giê-su là ai. Đối với độc giả chống đối thì có lẽ cần đọc thêm nữa để tìm ra những lời nói và việc làm của Đức Giê-su có sức thuyết phục hơn…
Oh con cám ơn cha đã trả lời rất rõ ràng. Bây giờ con mới hiểu ý nghĩa và thông tin quan trọng dành cho mọi người và cho chính mình ở câu 2,10-11 đó là “Đức Giê su biết được suy nghĩ của người khác và Người có khả năng chữa lành chỉ bằng một lời nói, điều này minh họa cho quyền tha tội của Người.”
XóaVề phản ứng của độc giả đối có giống như dân chúng trong bản văn không thì tuỳ mỗi người có cảm nhận và hiểu như thế nào về bản văn.
Riêng con thì thật sự thấy thích thú hơn khi được cha giải thích ý nghĩa của câu 2,10-11 vì có thể liên kết toàn bộ Mc 2,1-13
Bây giờ thì con thưởng thức bản văn dưới một góc độ khác
Hihi
Thanks cha.
Thưa cha chúng ta có thể hiểu và nói rằng lời tha tội của ĐỨC GIÊSU (tội con đã được tha chứ không nói bệnh con đã được khỏi) cũng là một cách mà Ngài và cũng là dụng ý của tác giả muốn xua tan đi não trạng của dân Do Thái bấy giờ khi cho rằng bệnh tật là do tội lỗi được không cha? Tại con chợt liên tưởng đến câu hỏi của các môn đệ với ĐỨC GIÊSU trong Ga 9,1-41: "Thưa Thầy ai đã phạm tội khiến người này mới sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?"(Ga 9,2).
Trả lờiXóaCó thể hiểu như vậy, nhưng bản văn Mc 2,1-13 không nói về đề tài này như Ga 9. Bản văn Mc 2,1-13 nhấn mạnh hai điều: (a) mặc khải về căn tính của Đức Giê-su, nếu như chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội (2,7) thì Đức Giê-su là con người và là Thiên Chúa; (b) giúp độc giả nhận ra chữa lành là hình cảnh của được tha tội, nghĩa là bước vào tương quan hiệp thông với Thiên Chúa nhờ tin và đón nhận Đức Giê-su.
Xóa