Bài viết tiếng Pháp và tiếng Anh:
Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 22 tháng 03 năm 2020.
Nội dung
I. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
1. Lời Đức Giê-su
2. Thuộc về “bóng tối”
3. Không hiểu biết
4. Nghĩ rằng Đức Giê-su vắng mặt
5. Bị thù ghét và bách hại
II. Giải pháp để giữ vững niềm
tin
1. Hiểu và sống lời Đức
Giê-su
2. “Ở lại trong nhau” với Đức Giê-su
3. Có Đức Giê-su, Cha, Đấng
Pa-rác-lê
ở lại với
mình
4. Sống bình an và niềm vui Đức
Giê-su ban tặng
5. Để Đấng Pa-rác-lê hoạt động nơi mình
Kết luận
Dẫn nhập
“Tin” (pisteuô)
là đề tài quan trọng trong Tin Mừng Gio-an vì mục đích sách Tin Mừng là “để anh
em tin” (20,31), xem bài viết: “Tin (pisteuô) trong Tin Mừng Gio-an.” Tuy nhiên
tin vẫn chưa đủ, vấn đề là làm thế nào để giữ vững niềm tin trong hoàn cảnh khó
khăn, thử thách. Bài viết trình bày đóng góp của Tin Mừng Gio-an về đề tài “khủng
hoảng và giải pháp” qua hai mục: (I) nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng; (II) giải pháp để giữ vững niềm tin.
I. Nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng
Có nhiều yếu tố trong
Tin Mừng cho thấy tình trạng khủng hoảng nơi các môn đệ. Có thể liệt kê đến năm
nguyên nhân gây khủng hoảng: (1) lời Đức Giê-su; (2) thuộc về “bóng tối”; (3) không
hiểu biết; (4) nghĩ rằng Đức Giê-su vắng mặt; (5) bị thù ghét và bách hại.
1. Lời Đức Giê-su
Khủng hoảng vì giáo
huấn của Đức Giê-su được trình bày cách mạnh mẽ trong ch. 6. Cấu trúc chương
này gồm bốn phần: (1) Trước hết, Đức Giê-su làm dấu lạ hoá bánh và cá ra nhiều cho hơn năm ngàn
người ăn no (6,1-15). (2) Sau đó, Người bày tỏ quyền năng bằng dấu lạ đi trên
mặt biển hồ Ti-bê-ri-a để đến với các môn đệ trong đêm tối (6,16-21) vào lúc “biển
đầy gió lớn đang thổi và giật mạnh” (6,18). (3) Tiếp theo là diễn từ bánh sự
sống (6,25-59). (4) Phần cuối ch. 6 trình bày phản ứng của các môn đệ sau khi
nghe diễn từ (6,60-71).
Qua trao đổi và thắc
mắc của đám đông và những người Do Thái, Đức Giê-su mặc khải về nguồn gốc và sứ
vụ của Người trong diễn từ. Theo mạch văn, các môn đệ hiện diện với Đức Giê-su
trong ch. 6. Theo định nghĩa “môn đệ” (mathêtês) là người đi theo và tin
vào Đức Giê-su. Trong ch. 6 từ “môn đệ” xuất hiện 4 lần (6,16.60.61.66), họ đã
chứng kiến hai dấu lạ (6,1-15; 6,16-21) và nghe diễn từ bánh sự sống (6,25-59).
Từ những gì đã thấy và đã nghe, nhiều người trong số các môn đệ đã thốt lên ở
6,60: “Lời này chướng tai quá! Ai có thể nghe nổi?” (Xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và Ba thư Hy Lạp – Việt). Điều đáng
tiếc đã xảy ra khi người thuật chuyện cho biết ở 6,66: “Từ lúc đó, nhiều môn đệ
của Người bỏ đi và không còn đi với Người nữa.” Quyết định thôi không làm môn
đệ nữa là khủng hoảng lớn về niềm tin. Tại sao lại quyết định bỏ đi?
Trong diễn từ (6,25-59),
các môn đệ và độc giả biết nhiều điều về nguồn gốc và căn tính Đức Giê-su: Người
là ai, từ đâu tới và làm gì cho con người... Tuy nhiên lời Đức Giê-su đầy
nghịch lý. Nguồn gốc của Người là nghịch lý, vì Người vừa là con ông Giu-se
(6,42) vừa là Đấng từ trời xuống (6,38). Sứ vụ của Đức Giê-su nghịch lý, vì kiểu
nói “ăn thịt và uống máu” (6,54) gợi về biến cố thập giá. Người khẳng định ở 6,54:
“Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì có sự sống đời đời, và Tôi sẽ làm cho
người ấy sống lại vào ngày sau hết”. Như thế, chỉ người tin vào Đức Giê-su và
hiệp thông với Người trong biến cố Thương Khó – Phục Sinh, mới có sự sống đời
đời. Điều nghịch lý là tại sao lại phải chết để ban sự sống? Người chết mà ban
sự sống được sao?
Nhiều môn đệ đã
không chịu nổi những nghịch lý trên nên đã xầm xì: “Lời này chướng tai
quá! Ai có thể nghe nổi?” (6,60). Trong mạch văn cụm từ “lời này” (ho logos
houtos) chỉ về toàn bộ diễn từ bánh sự sống (6,25-59). Sau lời xầm xì, người
thuật chuyện cho biết ở 6,61: “Đức Giê-su tự mình biết là các môn đệ của Người
đang xầm xì về điều ấy, Người nói với các ông:
‘Điều đó làm anh em vấp ngã sao?’” Nhiều môn đệ đã vấp ngã vì lời Đức
Giê-su. Nói cách khác, chính lời Đức Giê-su dẫn đến khủng hoảng niềm tin. Nhiều
môn đệ không vượt qua được thử thách này, nên đã quyết định thôi, không làm môn
đệ Đức Giê-su nữa. Họ vấp ngã vì đã hiểu lời Đức Giê-su theo nghĩa “xác thịt”
mà “xác thịt thì chẳng có ích gì” như Người nói ở 6,63: “Thần khí thì làm cho
sống, xác thịt chẳng có ích gì. Những lời chính Thầy nói với anh em là thần khí
và là sự sống.” Nhiều môn đệ vấp ngã vì không đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa
như là điều kiện để đến với Đức Giê-su và tin vào Người. Đức Giê-su nói về điều
này ở 6,44a: “Không ai có thể đến với Tôi, nếu Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi
kéo người ấy”; và ở 6,45b: “Mọi người nghe Cha và đón nhận giáo huấn của
Người thì đến với Tôi.” (Xem phân tích đề tài “Ga 6,22-71: ‘Thánh
Thể’, lý trí và đức tin” trong Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin
Mừng thứ tư, tr. 110-146).
Đoạn văn 6,60-71 gồm
hai tiểu đoạn: Đức Giê-su (1) nói với “nhiều môn đệ” (1,60-66); và (2) nói với
Nhóm Mười Hai (6,67-71). Vậy bên cạnh Nhóm Mười Hai còn có nhiều môn đệ khác.
Nhiều môn đệ không thuộc Nhóm Mười Hai đã vấp ngã, còn Nhóm Mười Hai thì sao? Đức
Giê-su hỏi họ ở 6,67: “Phần anh em, anh em không muốn bỏ đi sao?” Si-môn
Phê-rô đại diện Nhóm tuyên xưng niềm tin ở 6,68-69: “68 Thưa Thầy, chúng con sẽ
bỏ đi với ai? Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con,
chúng con đã tin và đã nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.”
Nhiều môn đệ bỏ đi ở 6,66 và lời tuyên xưng niềm tin ở 6,68-69 cho thấy hai cách hiểu đối lập nhau về lời Đức
Giê-su. Theo nhiều môn đệ, lời Đức Giê-su là “lời chướng tai”, ngược lại Nhóm Mười
Hai lại xác nhận đó là “lời đem lại sự sống đời đời.” Vậy cách thức và thái độ
nghe đã dẫn đến tin hay không tin. Nói cách khác, nếu không biết cách nghe lời Đức
Giê-su, thì chính lời của Người trở thành nguyên nhân vấp ngã. Ở 6,70, Đức
Giê-su báo trước khủng hoảng khác: để mình thuộc về “bóng tối”.
2. Thuộc về “bóng tối”
Sau khi Si-môn Phê-rô tuyên
xưng niềm tin (6,68-69), Đức Giê-su không khen mà lại báo trước khủng hoảng về
lòng trung tín của Nhóm Mười Hai. Người nói với họ ở 6,70: “Chẳng phải chính
Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em là quỷ.”
Cuộc trao đổi kết thúc đột ngột ở đây. Lời này là yếu tố gây khủng hoảng giữa
Nhóm Mười Hai, bởi vì tuyên xưng niềm tin vừa nói ra (6,68-69) không thể dung
hoà với ý tưởng “một người trong anh em là quỷ” (6,70b), nghĩa là một thành viên
trong Nhóm Mười Hai thuộc về bóng tối, thuộc về quỷ và làm công việc của quỷ (8,44a).
Với những người Do Thái đang tìm cách giết Đức Giê-su (8,37.40), Người nói với
họ ở 8,44a: “Các ông thuộc về quỷ là cha các ông, và các ông muốn làm những ước
muốn của cha các ông.” Hành động tìm giết Đức Giê-su làm cho họ thuộc về quỷ,
có cha là quỷ và đang làm công việc của quỷ (8,44a). Trong viễn cảnh này, khi
nói “một người trong anh em là quỷ” (6,70b), Đức Giê-su báo trước một thành viên
của Nhóm sẽ nộp Thầy.
Ai là quỷ ở 6,70? Nhóm Mười Hai là nhân vật
trong câu chuyện, nên chưa biết ai là quỷ trong số họ. Đức Giê-su không giải
thích gì thêm cho họ sau câu 6,70. Điều này gây khủng hoảng trong nội bộ Nhóm Mười
Hai. Không ai biết, nhưng có “quỷ” ở giữa Nhóm. Đức Giê-su sẽ cho các môn đệ
biết người đó là ai trong bữa tiệc ly ở 13,26, nhưng ở 6,70, các ông chưa biết
ai là quỷ. Người thuật chuyện ưu đãi độc giả khi ngưng kể chuyện và giải thích ở
6,71: “Người (Đức Giê-su) nói về Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt; vì ông ấy
sẽ nộp Người, một người trong Nhóm Mười Hai.” Độc giả biết ai là quỷ vì câu
6,71 dành cho độc giả chứ không cho nhân vật trong câu chuyện.
Trong Tin Mừng, nhân vật Giu-đa là yếu tố gây
khủng hoảng với chính ông và với nhóm các môn đệ. Đoạn văn 13,1-32, cung cấp
đôi nét về nhân vật này. Giu-đa được trình bày qua bốn tương quan: (1) với gia
đình, ông được gọi là “Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt” (6,71a); (2) với Đức
Giê-su, ông được gọi là “kẻ nộp (paradidômi) Thầy” (6,64; 13,2.11.21); (3) với Nhóm Mười Hai, ông được gọi là “một người
trong Nhóm Mười Hai” (6,71b); (4) với thế lực bóng tối, ông là “quỷ” (6,70b). Tương
quan thứ tư này được nhấn mạnh trong bản văn 13,1-32.
Thật vậy, trình thuật rửa
chân mở đầu ở 13,2: “Trong bữa ăn, quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn
Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Người (Đức Giê-su).” Sau đó, khi Đức Giê-su chấm miếng
bánh và trao cho Giu-đa như là dấu hiệu để các môn đệ biết ai là kẻ sẽ nộp Thầy
(13,26), người thuật chuyện kể ở 13,27a: “Và khi nhận miếng bánh, Xa-tan liền
nhập vào ông ấy (Giu-đa).” Trong Tin Mừng, chuyện Giu-đa tiến triển qua bốn giai
đoạn: (1) Đức Giê-su cho biết Giu-đa là quỷ ở 6,70. (2) Đến 13,2 thì quỷ đã
gieo vào lòng ông ý định nộp Đức Giê-su. (3) Sau khi đã nhận miếng bánh Đức
Giê-su trao, thì Xa-tan đã nhập vào ông ở 13,27. (4) Cuối cùng, ông ra đi thực hiện
công việc của quỷ; chuyện Giu-đa kết thúc ở 13,30: “Sau khi nhận lấy miếng
bánh, ông ấy đi ra ngay lập tức. Lúc đó, trời đã tối.” Giu-đa xuất hiện trở lại
ở 18,1-3, ông dẫn một cơ đội đến bắt Đức Giê-su (18,3). Ông đã để mình thuộc về
quỷ, thuộc về Xa-tan. Đây là hai cách gọi thế lực chống lại Thiên Chúa. Bản
Kinh Thánh LXX (la Septante) dịch tiếng Híp-ri “Satan” (Xa-tan) sang Hy-lạp:
“diabolos” (quỷ). Xem bài viết “Xa-tan (Satanas), quỷ (diabolos, daimonion), Ác thần (ponêros) trong Kinh Thánh.”
Giu-đa đã để mình thuộc
về thế lực đen tối và ông đi vào đêm tối để làm công việc của quỷ (x. 8,44). Trong
đoạn văn 13,1-32, Giu-đa không bày tỏ
cảm xúc, ông không nói lời nào. Sự im lặng và vô cảm này làm cho nhân vật này
trở thành công cụ của Xa-tan. Ông lựa chọn làm công việc của quỷ, có lẽ vì chưa
thực sự biết Đức Giê-su là ai. Đối với Nhóm Mười Hai, sự hiện diện cũng như sự
vắng mặt của ông là yếu tố khủng hoảng cho Nhóm, vì ông là thành viên. Ông để
lại dấu ấn trong Nhóm Mười Hai về sự hiệp nhất giữa các môn đệ và về lòng trung
tín của từng môn đệ với Thầy. Nhóm Mười Hai đã tuyên xưng niềm tin đích thực
vào Đức Giê-su (6,68-69), Giu-đa là một người trong Nhóm mà vẫn đứng về phía bóng
tối và bị chi phối bởi thế lực đen tối. Ông là hình ảnh người môn đệ trong tình
trạng khủng hoảng trầm trọng về niềm tin và về lòng trung tín với Thầy.
3. Không hiểu biết
Không hiểu Đức Giê-su và sứ vụ của Người là yếu tố gây khủng hoảng. Không
hiểu lời Đức Giê-su, không biết ý nghĩa của những biến cố đang xảy ra đã làm họ
rơi vào trình trạng xao xuyến và sợ hãi. Đề tài “khủng hoảng vì không biết” được
trình bày trong Ga 13–16.
Trong bữa ăn tiệc ly (Ga
13), Si-môn Phê-rô đã không hiểu ý nghĩa việc rửa chân khi ông quả quyết với
Đức Giê-su ở 13,8a: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con.” Trên bình diện
trần thế, phản ứng trên bày tỏ lòng tôn trọng Thầy, vì Đức Giê-su là Thầy, là
Chúa sao lại rửa chân cho môn đệ được. Tuy nhiên khi Đức Giê-su nói với ông:
“Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ
chẳng có phần với Thầy” (13,8b) thì Phê-rô lại muốn điều ngược lại. Từ chỗ không
chịu rửa chân đến chỗ đòi rửa cả chân, tay và đầu. Ông xin Đức Giê-su ở 13,9:
“Thưa Thầy, không chỉ rửa chân con, nhưng cả tay và đầu.” Hình như ông muốn
bằng mọi giá “có phần với Thầy”, có càng nhiều càng tốt. Bản văn có nét châm
biếm và hài hước vì Phê-rô tưởng là biết, nhưng thực ra ông không biết điều
mình xin gì. Bằng chứng là Đức Giê-su không đáp ứng cả hai yêu cầu của ông.
Vậy Phê-rô đang ở trong tình trạng khủng hoảng, xin gì cũng không được. Lý do
khủng hoảng là vì không hiểu việc làm “rửa chân” (13,8a) và lời nói “có phần” (13,8b)
của Thầy.
Trong Ga 13–16, các môn
đệ còn không biết nhiều thứ khác. Chẳng hạn, ở 13,21-22, các ông không biết ai
là kẻ sẽ nộp Thầy. Khi Đức Giê-su nói với họ ở 13,21b: “Một người trong
anh em sẽ nộp Thầy”, người thuật chuyện kể ở 13,22: “Các môn đệ nhìn nhau, phân
vân không biết Người nói về ai.” Ở 13,29, Đức Giê-su chấm miếng bánh và trao
cho Giu-đa, nghĩa là các môn đệ đã biết ai là kẻ nộp Thầy. Nhưng điều lạ trong
bản văn là không ai phản ứng gì về điều này, mà họ lại rơi vào tình trạng không
biết về chuyện khác. Đó là không biết ý nghĩa lời Đức Giê-su nói với Giu-đa ở 13,27b:
“Anh làm gì thì làm mau đi”.
Người thuật chuyện kể ở 13,28-29: “28 Không ai trong những người đang dùng bữa
biết tại sao Người (Đức Giê-su) nói với ông ấy (Giu-đa) như thế. 29 Vì Giu-đa
giữ túi tiền, có vài người nghĩ là Đức Giê-su nói với ông ấy: ‘Anh hãy mua những
món cần dùng trong dịp lễ’, hoặc bố thí cho người nghèo.” Giu-đa đi nộp Thầy mà
không ai trong nhóm biết ông đi đâu và làm gì! Khủng hoảng vì không biết sẽ
bùng nổ khi biến cố xảy ra như Đức Giê-su báo trước ở 16,32: “Này đến giờ
– và đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi người về nhà mình và bỏ lại Thầy
một mình. Nhưng Thầy không ở một mình vì Cha ở với Thầy.”
Đề tài không biết,
không hiểu về Đức Giê-su và về lời của Người còn bộc lộ qua những câu hỏi. Chẳng
hạn, Phê-rô hỏi Đức Giê-su ở 13,36a: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Và ở 13,37a:
“Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo Thầy bây giờ được?” Tô-ma hỏi Đức
Giê-su ở 14,5: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng
con có thể biết đường?” Ngay trước biến cố Thương Khó mà các môn đệ không biết
Thầy đi đâu và không biết mình đi con đường nào! Đồng thời, các câu hỏi trên
đây cũng là kỹ thuật hành văn. Qua lối hành văn “hỏi –trả lời”, Đức Giê-su được
trình bày như là Đấng mặc khải, Đấng biết mọi sự. Người trả lời thắc mắc của các
môn đệ, cũng là thắc mắc của cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I và của độc giả
qua mọi thời. Đức Giê-su mặc khải ý định của Cha và căn tính của Người qua lối
hành văn “hỏi – đáp”. Vậy học hỏi lời Đức Giê-su giúp độc giả giữ vững niềm
tin.
4. Nghĩ rằng Đức Giê-su vắng mặt
Các môn đệ đang bị khủng
hoảng vì Đức Giê-su sắp đi về với Cha qua biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Các ông
buồn rầu, xao xuyến và sợ hãi. Đức Giê-su khích lệ họ ở 14,1: “Lòng anh em đừng
xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy.” Đến cuối ch. 14, Người ban bình an cho họ ở 14,27c: “Lòng anh em đừng
xao xuyến, đừng sợ hãi.” Biến cố Đức Giê-su ra đi làm cho “ưu phiền tràn ngập
lòng” các môn đệ như Người nói ở 16,6: “Nhưng vì Thầy nói ra các điều ấy, nỗi
ưu phiền tràn ngập lòng anh em” (16,6). Tuy nhiên Đức Giê-su hứa sẽ gặp lại và các
môn đệ sẽ vui mừng: “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ lại thấy anh em, và
lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy khỏi anh em được”
(16,22).
Tình cảnh lo buồn, xao
xuyến và sợ hãi của các môn đệ gợi đến khủng hoảng của cộng đoàn Gio-an vào
cuối thế kỷ thứ I. Khi cộng đoàn gặp khó khăn thử thách thì dường như Đức Giê-su
không hiện diện với cộng đoàn, Người không lên tiếng. Cộng đoàn cảm thấy bị bỏ
rơi và đang sống trong tình trạng mồ côi. Trong hoàn cảnh này, lời Đức Giê-su
nói với các môn đệ cũng là lời Người nhắn gửi cộng đoàn: “Thầy sẽ không để anh
em mồ côi, Thầy đến với anh em” (14,18). Ngày nay, nhiều người vẫn nghĩ Đức
Giê-su vắng mặt. Điều này làm sa sút lòng trông cậy và làm lung lay lòng tin.
Nhiều người tự hỏi, nếu có Chúa hiện diện thì sao lại xảy ra những chuyện đau
thương, bi đát và bất công đến thế. Nhận ra sự hiện diện sống động của Đức
Giê-su trong mọi hoàn cảnh là thách đố lớn cho người tin. Làm thế nào để nhận
ra Đức Giê-su đang ở với, đang đồng hành với mình? Phần giải pháp sẽ đưa ra câu
trả lời.
5. Bị thù ghét và bách hại
Trong đoạn văn Ga
15,18–16,4a, Đức Giê-su báo cho các môn đệ biết họ sẽ bị thế gian thù ghét và
bách hại ở 15,18-19: “18 Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã
ghét Thầy trước. 19 Nếu anh em thuộc về thế gian, thế gian đã yêu thích cái gì
là của riêng nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và chính Thầy đã chọn anh
em từ giữa thế gian, vì điều này, thế gian ghét anh em.” Thế gian (kosmos)
ghét các môn đệ gọi là
“thế gian thù ghét”, thế gian này là ai? Bài viết: “Thế gian (kosmos) trong Tin Mừng Gio-an” đã trình bày
năm nghĩa từ Hy-lạp “kosmos” (thế gian) trong Tin Mừng: (1) “thế gian vũ
trụ”, (2) “thế gian trái đất”, (3) “thế gian nhân loại”, (4) “thế gian chưa
tin” và (5) “thế gian thù ghét”. Các nghĩa này diễn tả thần học về tương quan
giữa thế gian và sứ vụ Đức Giê-su. “Thế gian thù ghét” được định nghĩa trong
tương quan với Đức Giê-su và với các môn đệ. Vì ghét và bách hại Đức Giê-su và các
môn đệ nên được gọi là “thế gian thù ghét.” Thế gian này gồm những người đã
nghe những lời Đức Giê-su, đã thấy những dấu lạ Người làm nhưng vẫn không tin (15,22-24).
“Thế gian thù ghét” trong
Tin Mừng gợi đến những kẻ chống đối trong sứ vụ của Đức Giê-su, họ là những người
Do Thái, những người Pha-ri-sêu và các thượng tế với đặc điểm không tin, chống
đối, thù ghét và tìm giết Đức Giê-su. “Thế gian thù ghét” cũng gợi đến những kẻ
bách hại cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I và bách hại người tin qua mọi thời
đại. Trong Tin Mừng thế gian này có sáu đặc điểm: (1) ghét Đức Giê-su, Chúa Cha
và các môn đệ; (2) thuộc về thủ lãnh thế gian và quỷ; (3) không biết Đức Giê-su
và Cha của Người; (4) không tin vào Đức Giê-su; (5) có tội; (6) được mời gọi
tin và nhận biết Đức Giê-su. Xem bài viết: “Sáu đặc điểm của thế gian thù ghét và những kẻ
chống đối (TM Gio-an).”
Lý do bị thù ghét là các
môn đệ không thuộc về thế gian và vì họ được Đức Giê-su tuyển chọn. Đức Giê-su nêu
giả thiết ở 15,19a: “Nếu anh em thuộc về thế gian, thế gian đã yêu thích cái gì
là của riêng nó”, nghĩa là nếu các môn đệ thuộc về thế gian thì được thế gian
yêu mến và đương nhiên sẽ không bị thù ghét. Nhưng nếu thuộc về thế gian thì không
thuộc về Đức Giê-su, nghĩa là cành nho không còn trên thân nho Đức Giê-su nữa.
Trong trường hợp này, hậu quả sẽ như lời Đức Giê-su ở 15,6: “Ai không ở lại
trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và bị khô héo. Người ta
thu lượm chúng, bỏ vào lửa và chúng bị đốt cháy.” Vậy các môn đệ ở trong hoàn cảnh
tiến thoái lưỡng nan. Tin và thuộc về Người thì có sự sống đời đời, nhưng lại
có nguy cơ bị bách hại. Thuộc về thế gian thì được thế gian yêu mến, nhưng lại
bị hư mất, không có sự sống của Thiên Chúa.
Hoàn cảnh tiến thoái
lưỡng nan như trên kéo dài suốt dòng lịch sử. Cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ
I đang gặp thử thách, thậm chí mạng sống các thành viên bị đe dọa. Đức Giê-su cho
các môn đệ biết điều đó ở 16,2: “Họ sẽ làm cho anh em thành những người bị khai
trừ khỏi hội đường. Sẽ đến giờ, kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ
Thiên Chúa.” Lời báo trước này giúp giữ vững niềm tin và tránh vấp ngã như Đức Giê-su
nói ở 16,1: “Những điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em không bị vấp ngã.”
Lời này gợi ý rằng trong hoàn cảnh bách hại đã xảy ra trường hợp vấp ngã và
chối bỏ niềm tin. Một số Ki-tô hữu có thể đã để quỷ gieo vào lòng mình những ý định
đen tối, đã thuộc về quỷ và làm công việc của quỷ như Giu-đa (6,71;
13,2.27.30). Việc Phê-rô chối đã được Đức Giê-su báo trước (13,38) mà vẫn chối (18,17.25.26-27)
gợi đến tình trạng khủng hoảng trong cộng đoàn, có thể một số thành viên đã
thầm kín hay công khai chối Thầy như Phê-rô.
Tin Mừng gợi lên những
yếu tố khủng hoảng niềm tin, đồng thời cho độc giả biết phải làm gì để tránh
vấp ngã. Trong các diễn từ từ biệt (Ga 13–16), Đức Giê-su đã động viên các môn
đệ và độc giả, đặc biệt câu cuối ch. 16 ở 16,33: “Những điều này, Thầy nói với
anh em để trong Thầy, anh em có sự bình an. Trong thế gian, anh em có sự khốn
khó, nhưng anh em hãy can đảm, chính Thầy đã thắng thế gian.” Cùng với sự động viên, Đức Giê-su mặc khải những giải
pháp cụ thể.
II. Giải pháp để giữ vững
niềm tin
Tin Mừng đề nghị năm giải
pháp giúp độc giả vượt qua khủng hoảng: (1) hiểu và sống lời Đức Giê-su; (2) “ở lại trong nhau” với Đức Giê-su; (3) có Đức
Giê-su, Chúa Cha, Đấng Pa-rác-lê
ở lại với mình; (4) sống niềm
vui và bình an Đức Giê-su ban tặng; (5) để Đấng
Pa-rác-lê hoạt động nơi mình.
1. Hiểu và sống lời Đức
Giê-su
Trước những thử thách
xảy đến vì niềm tin như trên, chính Đức Giê-su là giải pháp. Cách tốt nhất để
xây dựng tương quan mật thiết và bền vững với Đức Giê-su là hiểu và sống giáo
huấn của Người. Theo Tin Mừng, Đức Giê-su đã trao ban toàn bộ mặc khải cho các
môn đệ khi nói ở 15,15: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết
điều chủ mình làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy
nghe nơi Cha của Thầy, Thầy đã làm cho anh em biết.” Tất cả những gì Đức Giê-su
đã nghe nơi Cha, Người đã làm cho các môn đệ biết. Nghĩa là toàn bộ mặc khải đã
được trao ban, các môn đệ không cần đi tìm ở nơi nào khác. Tuy nhiên đã hiểu mặc
khải hay chưa lại là chuyện khác. Bối cảnh Ga 13–16 cho thấy các môn đệ chưa
hiểu hết. Họ sống trong tâm trạng xao xuyến và sợ hãi, nên không mang nổi lời Đức
Giê-su như Người nói ở 16,12: “Thầy vẫn có nhiều điều để nói với anh em, nhưng
bây giờ anh em không thể mang nổi.” Chỉ sau khi Đức Giê-su về với Cha và Đấng
Pa-rác-lê được gửi tới, Người sẽ dẫn các môn đệ đi trong sự thật toàn vẹn
(16,13) và dạy các môn đệ tất cả những gì Đức Giê-su đã nói (14,26). Xem bài
viết: “Đấng Pa-rác-lê là ai?”
Như thế, học hỏi lời
Đức Giê-su dưới sự hướng dẫn của Đấng Pa-rác-lê là việc làm cần thiết và làm suốt
đời người tin. Nhờ Đấng Pa-rác-lê dạy và hướng dẫn mà người tin hiểu ý nghĩa
lời Đức Giê-su trong hoàn cảnh cụ thể. Vậy lời Đức Giê-su trở thành lương thực
không hư nát, bánh sự sống, nước sự sống, ánh sáng soi dẫn người tin. Nhờ lời Đức
Giê-su, người tin tìm được ý nghĩa cao quý của lựa chọn tin và thuộc về Người.
2. “Ở lại trong nhau” với Đức Giê-su
Lời mời gọi “ở lại
trong nhau” giữa Đức Giê-su và người tin được nói đến nhiều lần trong Tin Mừng.
Về thần học “ở lại trong nhau” là bước vào tương quan với nhau cách chủ động và
từ hai phía: Đức Giê-su ở trong các môn đệ và các môn đệ ở trong Người như Người
nói ở 14,20: “Trong ngày đó, anh em sẽ biết rằng: Thầy trong Cha Thầy, anh em
trong Thầy và Thầy trong anh em.” Ở lại trong nhau là điều kiện để tồn tại và
sinh nhiều hoa trái như Đức Giê-su mời gọi ở 15,4: “Anh em hãy ở lại trong
Thầy, như Thầy trong anh em. Như cành nho không thể sinh hoa trái tự nó nếu
không ở lại trong cây nho, anh em cũng
không, nếu anh em không ở lại trong Thầy.” Xem phân tích câu 14,20b trong bài viết:
“Ga 14,15-24: Đặc ân dành cho
ai yêu mến Đức Giê-su và giữ các điều răn của Người.”
“Ở lại trong nhau” là mặc
khải quan trọng về tương quan giữa Đức Giê-su và Cha của Người. Khi Phi-líp-phê
nói với Đức Giê-su ở 14,8: “Thưa Thầy, hãy tỏ cho chúng con Cha là đủ
cho chúng con”, Đức Giê-su nói với Phi-líp-phê ở 14,10a: “Anh (số ít) không tin
rằng: Thầy trong Cha và Cha ở trong Thầy sao?” Rồi Người mời gọi tất cả môn đệ ở
14,11a: “Anh em (số nhiều) hãy tin Thầy: Thầy trong Cha và Cha trong Thầy.” Vậy,
đối với người tin, ở lại trong Đức Giê-su và Người ở lại trong mình là bước vào
tương quan hiệp thông sâu xa với Người, đồng thời được tham dự vào tương quan thần
linh giữa Đức Giê-su và Cha của Người (14,10.11).
“Ở
lại trong Đức Giê-su” là lựa chọn sống còn của người tin: “Ở lại” là sống,
“không ở lại” là chết, là hư mất, là “bị quăng ra ngoài như cành nho và bị khô héo” (15,6a). Vậy “ở lại trong nhau” với Đức Giê-su là thuộc về Người. Điều
này bao hàm nguy cơ bị thù ghét và bách hại. Lựa chọn ở lại trong Đức
Giê-su đem lại sự sống đích thực, nhưng cũng hàm ẩn can đảm đón nhận thử thách
gian nan. Tóm lại, thực hiện việc “ở lại trong nhau” là một trong những giải
pháp giúp vượt qua khủng hoảng.
3. Có Đức Giê-su, Cha, Đấng
Pa-rác-lê ở lại
với mình
Trong đoạn văn 14,15-24,
Đức Giê-su cho các môn đệ biết cần làm gì để được Người, Chúa Cha và Đấng
Pa-rác-lê ở lại và đồng hành với mình. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở
14,15-16: “15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy; 16
và chính Thầy sẽ can thiệp với Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng
Pa-rác-lê khác để Người ở với anh em mãi mãi.” Điều kiện để đón nhận quà tặng Ðấng
Pa-rác-lê là yêu mến Đức Giê-su và giữ các điều răn của Người. Ở 14,21 Đức
Giê-su nói với các môn đệ: “Ai có các điều răn của Thầy và giữ chúng, người ấy
là người yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Chính Thầy
sẽ yêu mến người ấy và Thầy sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” Đến 14,23, Đức Giê-su
mặc khải cho các môn đệ: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời của Thầy, và Cha Thầy sẽ
yêu mến người ấy, và Chúng Tôi sẽ đến với người ấy và sẽ làm chỗ ở (monên)
nơi người ấy” (14,23).
Những lời trên cho thấy
cả Ba Đấng (Đức Giê-su, Chúa Cha, Đấng Pa-rác-lê) sẽ đến và ở lại với người “yêu
mến Đức Giê-su” (14,15.23), “giữ lời Người” (14,23); “có các điều răn” (14,21)
và “giữ các điều răn của Người” (14,15). Hai động từ “yêu mến” và “tuân giữ” liên
kết chặt chẽ đến mức có thể hoán chuyển cho nhau: “yêu mến thì tuân giữ”
(14,15), “tuân giữ thì yêu mến” (14,21), nghĩa là trong “yêu mến” có “tuân giữ”
và trong hành động “tuân giữ” luôn bao hàm “yêu mến”.
“Các điều răn của Đức
Giê-su” ở 14,15.21 song song với “lời của Người” ở 14,23, nên có thể hiểu “các
điều răn” (số nhiều) là tất cả giáo huấn của Người trình bày trong Tin Mừng.
Muốn biết làm gì để “yêu mến Đức Giê-su” và “các điều răn của Người” là gì, chỉ
cần đọc Tin Mừng. Vậy, học hỏi Tin Mừng giúp đón nhận điều Đức Giê-su hứa. Nghĩa
là trong người tin có sự “hiện diện” và “ở lại” của Đức Giê-su, Chúa Cha và
Đấng Pa-rác-lê. Sự ở lại huyền nhiệm này nơi người tin là nguồn khích lệ và an
ủi lớn lao, nhất là lúc gặp khó khăn thử thách. Xem bài viết: “Ga 14,15-24: Đặc ân dành cho
ai yêu mến Đức Giê-su.”
4. Sống bình an và niềm vui Đức
Giê-su ban
tặng
Ngay lúc các môn đệ
đang xao xuyến và sợ hãi (14,27), Đức Giê-su hứa ban bình an và niềm vui. Đề
tài niềm vui và bình an trong Ga 14–17 mang đậm nét Ki-tô học, vì đó là bình an
của Đức Giê-su và niềm vui của Người chứ không phải của thế gian, cũng không
phải của Thiên Chúa. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,27: “Thầy để lại bình
an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Không như thế gian ban mà chính Thầy ban cho
anh em. Lòng anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi.”
Đức Giê-su muốn niềm
vui của Người trở thành niềm vui của các môn đệ khi nói với họ ở 15,11: “Các điều
ấy, Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em và niềm vui của
anh em được trọn vẹn.” Cụm từ “các điều ấy” ở đây chỉ về những điều Đức Giê-su
vừa nói trước đó. Trong mạch văn gần “các điều ấy” là 15,1-10, trong bối cảnh
rộng hơn đó là mặc khải của Đức Giê-su từ 13,1 đến 15,10. Đối với độc giả “các
điều ấy” là lời Đức Giê-su nói chung. Vậy cần hiểu lời Đức Giê-su mới đón nhận được
niềm vui Đức Giê-su ban tặng và có khả năng làm cho niềm vui ấy trở thành niềm
vui của mình. Đây là niềm vui trọn vẹn (15,11, 17,13) và bền bỉ (16,22) như lời Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 16,22: “Bây giờ anh em
lo buồn, nhưng Thầy sẽ lại thấy anh em, và lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui
của anh em, không ai lấy khỏi anh em được.”
Lời cuối cùng Đức
Giê-su nói với các môn đệ trong ch. 13–16 là lời chúc ban bình an và khích lệ:
“Những điều này, Thầy nói với anh em để trong Thầy, anh em có sự bình an. Trong
thế gian, anh em có sự khốn khó, nhưng anh em hãy can đảm, chính Thầy đã thắng
thế gian” (16,33). Động từ “ekhô” (có) trong cụm từ “có sự bình an”
chia ở thì hiện tại, lối tiếp thuộc “ekhête”. Cách chia động từ này
đề cao giá trị hiện tại. Người tin cần làm ba điều để có bình an: (1)
lắng nghe lời Đức Giê-su nói (16,33a); (2) can đảm khi đối diện với gian nan thử
thách (16,33b); (3) xác tín Đức Giê-su đã thắng thế gian (16,33c).
Đề tài niềm vui và bình
an trên đây có thể hiểu theo “chiều ngang” và “chiều dọc”. Chiều ngang là hiểu
theo giòng thời gian (trước – sau). Cách hiểu này phù hợp với bối cảnh lịch sử
thời Đức Giê-su. Các môn đệ buồn rầu, sợ hãi, xao xuyến khi Đức Giê-su bước vào
cuộc Thương Khó. Nhưng họ sẽ vui mừng trong tương lai, khi Thầy trò gặp lại
nhau sau biến cố Phục Sinh. Hiểu niềm vui và bình an theo chiều ngang đề cao
biến cố nền tảng: Thương Khó – Phục Sinh. Biến cố này có khả năng đem lại bình
an và niềm vui đích thực cho người tin. Tuy nhiên, sau biến cố Phục Sinh cộng
đoàn người tin vẫn gặp thử thách và bị bách hại. Cách hiểu niềm vui và bình an
theo “chiều dọc” giúp giữ vững niềm tin
ngay trong lúc đang gặp thử thách.
Thật vậy, “chiều dọc”
(trên – dưới) của niềm vui và bình an được áp dụng cho cộng đoàn Gio-an cuối
thế kỷ I và cho độc giả qua mọi thời đại. Đức Giê-su không chỉ hứa ban niềm vui
và bình an trong tương lai (sau biến cố Phục Sinh) mà còn ban niềm vui (15,11) và
bình an (14,27a) trong hiện tại, ngay lúc các môn đệ đang xao xuyến và sợ hãi
(14,27b). Điều này có ý nghĩa đối với cộng đoàn cuối thế kỷ I, vì lúc ấy cộng
đoàn đang bị thù ghét và bách hại. Chiều dọc diễn tả tương quan giữa hai thế
giới như Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 8:23: “Các
ông, các ông thuộc về hạ giới; còn Tôi, Tôi thuộc về thượng giới. Các ông, các
ông thuộc về thế gian này; còn Tôi, Tôi không thuộc về thế gian này.” Giữa thế
giới của Thiên Chúa (thượng giới) và thế giới của con người (hạ giới), bình an và niềm vui của Đức Giê-su là quà tặng từ trời
cao. Nghĩa là nhờ bình an và niềm vui từ thượng giới ban xuống mà người tin vượt
qua thử thách ở hạ giới. Cách hiểu theo chiều dọc giúp sống trọn vẹn hai thực
tại đối lập: “niềm vui và nỗi buồn”, “khủng hoảng và bình an”. Nhưng các thực
tại này ở trên hai bình diện khác nhau: nỗi buồn và khủng hoảng là thực tại thuộc
hạ giới (thế gian này); niềm vui và bình an của Đức Giê-su là quà tặng đến từ thượng
giới. Đón nhận và sống hai thực tại này là giải pháp cho mọi thử thách.
Đề tài niềm vui và bình
an hiểu theo “chiều ngang” và “chiều dọc” như trên là một trong những nét độc
đáo của thần học Tin Mừng. Hai cách đọc này có ý nghĩa thiết thực vì vừa đề cao biến cố Thương Khó – Phục Sinh (hiểu theo chiều ngang), vừa cho phép hiện tại
hóa không ngừng niềm vui và bình an Đức Giê-su ban tặng trong thực tế cuộc sống
(hiểu theo chiều dọc). Tóm lại, có niềm vui và bình
an Đức Giê-su ban tặng sẽ giữ vững niềm tin, vượt qua xao xuyến và sợ hãi (14,1.27),
để can đảm làm chứng trong hoàn cảnh bị thù ghét và bách hại (15,18-21).
5. Để Đấng Pa-rác-lê hoạt động nơi mình
Sau khi Đức Giê-su về
với Cha, Đấng Pa-rác-lê được gửi đến với các môn đệ (16,7). Như thế, từ sau
biến cố Thương Khó – Phục Sinh, người tin sống trong thời kỳ Đấng Pa-rác-lê, Người
hiện diện và hoạt động nơi người tin và nơi cộng đoàn. Hoạt động phong phú của
Đấng Pa-rác-lê quy về ba lãnh vực: (1) ở với và hướng dẫn; (2) giảng dạy và làm
cho biết mặc khải của Đức Giê-su; (3) làm chứng “trước” và “trong” người tin.
(1) Đấng Pa-rác-lê “ở
với” các môn đệ, “ở giữa” cộng đoàn và “ở trong” từng người tin “mãi mãi” (14,16-17).
Người sẽ dẫn người tin “đi trong sự thật toàn vẹn” (16,13a). Theo thần học Tin
Mừng, người tin không phải xin Đấng Pa-rác-lê là Thánh Thần đến với mình nữa. Điều
cần là xin thực hiện được điều kiện để có Ðấng Pa-rác-lê: yêu mến Đức Giê-su và
giữ các điều răn của Người (14,15).
(2) Đấng Pa-rác-lê “dạy”
tất cả những gì Đức Giê-su đã nói, và “làm nhớ lại” giáo huấn của Người (14,26).
Ðấng Pa-rác-lê lấy những gì của Đức Giê-su mà loan báo cho các môn đệ (16,13-15).
Đối với thế gian thù ghét, Đấng Pa-rác-lê cho biết sự thật là thế gian có tội
vì đã không tin vào Đức Giê-su (16,9) và thủ lãnh của thế gian đã bị xét xử rồi
(16,11). Đấng Pa-rác-lê cho người tin biết sự thật về biến cố Thương Khó. Trên
bình diện lịch sử, Đức Giê-su bị giết chết trên thập giá, nhưng trên bình diện
mặc khải, đó là lúc Người về với Cha (16,10), là Giờ Người được tôn vinh (13,31-32;
17,1).
(3) Đấng Pa-rác-lê làm
chứng “trước” và “trong” người tin. Làm chứng trước người tin để giúp họ biết Đức
Giê-su và xác tín về căn tính thần linh của Người. Làm chứng trong người tin khi
họ làm chứng trước thế gian. Đấng Pa-rác-lê soi sáng từ bên trong để người tin can
đảm làm chứng về Đức Giê-su. Để Ðấng Pa-rác-lê hiện diện và hoạt động nơi mình là
giải pháp quan trọng để sống niềm tin cách sống động và vững vàng. Xem tài liệu
“Đấng Pa-rác-lê là ai?”; “Ga 16,4b-11: Đấng Pa-rác-lê và thế gian”; ĐẤNG PA-RÁC-LÊ – Thần Khí sự thật, tr. 153-330.
Kết luận
Tin Mừng Gio-an trình
bày năm yếu tố gây khủng hoảng nơi các môn đệ, đồng thời gợi về khủng hoảng đức
tin ngày nay: khủng hoảng vì (1) lời Đức Giê-su; (2) để mình thuộc về “bóng tối”;
(3) không hiểu lời Đức Giê-su; (4) tưởng là Đức Giê-su vắng mặt; (5) bị thế
gian thù ghét và bách hại. Những yếu tố này làm lung lay niềm tin và có nguy cơ
vấp ngã. Tin vào Đức Giê-su thì có sự sống đời đời, nhưng để sống niềm tin, người
tin có thể gặp thử thách, ngay cả phải hy sinh mạng sống để bảo toàn sự sống
đích thực Đức Giê-su ban tặng. Vậy phải làm gì khi gặp khủng hoảng? Tin Mừng đưa
ra năm giải pháp:
(1) Cách hiệu quả nhất
để vượt qua khủng hoảng là có Đức Giê-su ở với mình. Sự hiện diện sinh động của
Đức Giê-su được vun đắp qua việc tìm hiểu, học hỏi và sống lời Người. Nhờ tương
quan mật thiết với Đức Giê-su, người tin có sức mạnh tâm linh để đứng vững trước
sóng gió.
(2) “Ở lại trong Đức
Giê-su” và để “Người ở lại trong mình” theo như lời Người nói ở 14,20b: “Anh em
trong Thầy và Thầy trong anh em.” Lời này song song với 14,11a: “Thầy trong Cha
và Cha trong Thầy.”. “Ở lại trong” là hiệp thông sâu xa giữa người tin, Đức
Giê-su, Chúa Cha. Điều này giúp đứng vững trong thử thách và sinh nhiều hoa trái (15,5).
(3) “Yêu mến Đức Giê-su” và “giữ các điều răn của
Người” là điều kiện để có Đức Giê-su, Chúa Cha, Đấng Pa-rác-lê sẽ ở với
mình. Sự hiện diện của ba Đấng là khích lệ lớn lao khi người tin cảm thấy như
bị bỏ rơi, bị mồ côi (14,18a).
(4) Theo “chiều ngang”,
niềm vui và bình an Đức Giê-su ban tặng đề cao biến cố Phục Sinh đã gần 2000 năm.
Liệu người tin còn có niềm vui “không ai lấy mất được” (16,22) hay không? Theo “chiều
dọc”, quà tặng niềm vui và bình an không làm biến mất thử thách, nhưng giúp vui
sống thực tại trần thế. Bởi vì niềm vui và bình an được ban từ thượng giới đã
trở thành niềm vui và bình an của người tin ở hạ giới.
(5) Hoạt động của Đấng
Pa-rác-lê quy về ba lãnh vực: (1) ở lại (14,16-17) và hướng dẫn (16,13); (2) giảng
dạy và làm cho biết lời Đức Giê-su (14,26; 16,8-11); (3) làm chứng “trước” và “trong” người tin (15,26-27).
Những hoạt động này là nguồn sức mạnh tâm linh giúp can đảm làm chứng về Đức Giê-su.
Tin Mừng Gio-an giúp ai
đang khủng hoảng niềm tin, lạnh nhạt với niềm tin, thậm chí đã mất niềm tin, có
cơ may tìm lại được sức sống, lòng can đảm, niềm vui và bình an nhờ tin vào Đức
Giê-su. Dù thử thách xảy ra ở đâu, vào lúc nào đi nữa, người tin luôn được mời gọi
đọc Tin Mừng để đứng vững và sống niềm vui và bình an Đức Giê-su ban tặng. Xem KHỦNG HOẢNG VÀ GIẢI PHÁP cho các môn đệ trong Tin
Mừng thứ tư./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/12/khung-hoang-niem-tin-va-giai-phap-e-giu.html
Xin chân thành cám ơn tác giả đã giúp tôi có lại một chút nào đó lòng tin vào Chúa khi tôi đang phải cố vượt qua sự xấu thắng sự tốt.
Trả lờiXóaCON CHÂN THÀNH CÁM ƠN CHA.
Trả lờiXóaĐỌC QUA BÀI VIẾT CỦA CHA PHẦN NÀO CON CŨNG CỐ HƠN NIỀM TIN CỦA MÌNH-LÀ MỘT KITO HỮU-. VÀ TIẾP TỤC DẤN THÂN