Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 12 tháng 03 năm 2020.Email: josleminhthong@gmail.com
Nội
dung
Dẫn nhập
I. Các loại màu sắc, đá, kim loại quý
1. Màu
sắc
2. Các
loại đá, ngọc
3. Kim
loại
II. Ý nghĩa màu
sắc
1. Màu trắng
2. Trong suốt, tinh khiết
3. Màu đỏ
4. Màu đen
5. Màu xanh nhạt
6. Các loại ngọc quý, vàng ròng
7. Vàng, vật dụng bằng vàng
Kết luận
Dẫn nhập
Đọc sách Khải Huyền, độc giả thấy xuất hiện nhiều màu sắc (màu trắng, màu
đỏ, màu đen…), các loại đá quý và ngọc (cẩm thạch, bích ngọc, kim châu, ngọc
trai…) và các kim loại quý (vàng, bạc…). trong đó nhiều nhất là màu vàng (22
lần) và màu trắng (16 lần). Có thể cách dùng màu sắc, vàng bạc và đá quý là một
trong những đặc điểm của sách Khải Huyền, nhưng chúng có ý nghĩa gì? Khi sử
dụng vàng và đá quý để mô tả triều đình Thiên Quốc và Thành Giê-su-sa-lem mới,
người thuật chuyện muốn nói gì với độc giả? Sau khi đã tìm hiểu các
con số trong sách Khải Huyền và ý
nghĩa của chúng, bài viết này bàn đến ý nghĩa của màu sắc, kim loại và đá
quý trong sách Khải Huyền để phần nào trả lời những câu hỏi trên. Bài viết gồm hai phần chính: (I) Các loại màu sắc, đá, kim loại quý; (II) ý nghĩa màu sắc. Phần kết luận
sẽ nhắc lại bối cảnh lịch sử sách Khải Huyền và nối kết đề tài màu sắc, kim
loại, đá quý với thực tế lịch sử để tìm ý nghĩa thần học của đề
tài này dành cho độc giả.
I. Các loại màu sắc, đá, kim loại quý
Số lần xuất
hiện các từ ngữ trong sách Khải Huyền đã cho thấy tầm quan trọng của đề tài. Để
hiểu ý nghĩa bản văn cần tìm hiểu đề tài màu sắc, đá, kim loại quý. Tiếng Hy-lạp
dùng tính từ (adjective) hay danh từ (noun) để nói về cùng một
kim loại hay đá quý. Chẳng hạn, kim loại vàng (gold) được dùng nhiều
nhất trong Sách Khải Huyền (22 lần) với ba từ Hy-lạp: (1) Danh từ “khrusos”
(vàng, gold) xuất hiện 2 lần. (2) Danh từ “khrusion” (vàng ròng, pure
gold) xuất hiện 5 lần. (3) Tính từ “khrusous” (bằng vàng) xuất hiện
15 lần (xem chi tiết trong liệt kê dưới đây). Các từ Hy-lạp về màu sắc, đá, kim
loại được trình bày trong Phụ lục 2 “Một số từ ngữ trong Khải Huyền” ở cuối Sách
Khải Huyền Hy Lạp – Việt. Sau đây sẽ liệt kê tất cả màu sắc, đá, kim loại quý xuất hiện trong sách Khải Huyền qua ba mục: (1) màu sắc; (2) các loại đá,
ngọc; (3) kim loại. Các từ ngữ dưới đây xếp theo mẫu tự a,
b, c…
1. Màu sắc
Đen
(black), 2 lần: 6,5.12
- Ngựa đen, 6,5
- Mặt trời tối đen, 6,12
Đỏ như
lửa (red as fire), 2 lần: 6,4; 12,3
- Con ngựa đỏ như lửa, 6,4
- Con Mãng Xà đỏ như lửa, 12,3
Đỏ thẫm
(red, scarlet), 4 lần: 17,3.4; 18,12.16
- Con Thú màu đỏ thẫm, 17,3
- Người đàn bà mặc áo đỏ thẫm, 17,4
Người đàn bà này ngồi trên Con Thú (17,3)- Vải đỏ thẫm, 2 lần: 18,12.16
Đỏ tía (purple), 2 lần: 17,4; 18,16
- Áo đỏ tía, 17,4
- Vải đỏ tía, 18,16
Màu
huỳnh ngọc (hyacinth-colored), 1 lần: 9,17
- Áo giáp màu huỳnh ngọc
Màu lửa
(fiery), xuất hiện 1 lần: 9,17
- Ngựa mặc áo giáp màu lửa
Tinh
khiết, tinh ròng, trong suốt, tinh tuyền, thanh sạch (clean, pure), 6 lần:
15,6; 19,8.14; 21,18a.18b.21
- Thiên sứ mặc áo
vải gai tinh khiết sáng chói, 15,6
- Hôn thê mặc áo
vải gai mịn sáng chói và tinh tuyền,
19,8
- Đạo quân thiên
quốc
mặc vải gai mịn trắng và tinh tuyền, 19,14
- Thành bằng
vàng ròng, 21,18a
- Thành giống
như thủy tinh trong suốt, 21,18b
- Quảng trường
của Thành như thủy tinh trong suốt, 21,21
Trắng
(white), 16 lần: 1,14a.14b; 2,17; 3,4.5.18; 4,4; 6,2.11; 7,9.13; 14,14; 19,11.14a.14b; 20,11
- Tóc trắng, 1,14
- Len trắng, 1,14
- Sỏi trắng, 2,17
- Áo trắng, 7 lần:
3,4.5.18; 4,4; 6,11; 7,9.13
- Ngựa trắng, 3 lần:
6,2; 19,11.14
- Mây trắng, 14,14
- Vải gai mịn màu
trắng, 19,14
- Ngai màu trắng, 20,11
Trong suốt (transparent), 1 lần: 21,21
- Quảng trường của Thành như thủy tinh trong suốt
Xanh, xanh nhạt (yellowish green, light green), 3 lần: 6,8; 8,7; 9,4
- Ngựa màu xanh
nhạt, 6,8
- Cỏ xanh, 8,7
- Mọi loài xanh tươi trên mặt đất, 9,4
2. Các loại đá, ngọc
Bích
ngọc (emerald)
- Bích ngọc, bằng bích ngọc, (tính từ),
1 lần: 4,3
- Bích ngọc (emerald), 1 lần: 21,19
Cẩm
thạch (marble), 1 lần: 18,12
Đá
(stone)
- Đá (stone), 8 lần: 4,3; 17,4; 18,12.16.21;
21,11a.11b.19
- Đá quý (precious stone), 5 lần: 17,4; 18,12.16; 21,11; 21,19
Hoàng
ngọc (topaz), 1 lần: 21,20
Huỳnh
ngọc (jacinth), 1 lần: 21,20
Kim châu
(chrysolite), 1 lần: 21,20
Kim lục
(chrysoprase), 1 lần: 21,20
Lam ngọc
(sapphire), 1 lần: 21,19
Lục châu
(beryl), 1 lần: 21,20
Lục ngọc
(chalcedony), 1 lần: 21,19
Mã não
(sardonyx), 1 lần: 21,20
Ngọc
thạch (jasper), 4 lần: 4,3; 21,11.18.19
Ngọc
trai (pearl), 5 lần: 17,4; 18,12.16; 21,21a.21b
Pha lê
(rock crystal), 2 lần: 4,6; 22,1
Tử ngọc
(amethyst), 1 lần: 21,20
Xích não
(carnelian, sardius), 2 lần: 4,3; 21,20
3. Kim loại
Bạc
(silver)
- Bạc, bằng bạc (tính từ), 9,20
- Bạc (silver), 18,12
Đồng đỏ
(gold ore, bronze), 2 lần: 1,15; 2,18
Sắt,
bằng sắt (tính từ), 4 lần: 2,27; 9,9; 12,5; 19,15
Vàng
(gold)
- Vàng (gold), 2 lần: 9,7; 18,2
- Vàng ròng (pure gold), 5 lần:
3,18; 17,4; 18,16; 21,18.21
- Vàng, bằng vàng
(tính từ) 15 lần
- Bàn thờ
bằng vàng, 2 lần: 8,3b; 9,13
- Bình hương
bằng vàng, 8,3a
- Cây sậy
bằng vàng, 21,15
- Chén bằng
vàng, 3 lần: 5,8; 15,7; 17,4
- Đai bằng
vàng, 2 lần: 1,13; 15,6
- Tượng thần
bằng vàng, 19,20
- Triều thiên
bằng vàng, 2 lần: 4,4; 14,14
- Trụ đèn
bằng vàng, 3 lần: 1,12.20; 2,1
II. Ý nghĩa màu sắc
Ý
nghĩa các màu sắc được trình bày qua 7 điểm: (1) màu trắng; (2) trong suốt,
tinh khiết; (3) màu đỏ; (4) màu đen; (5) màu xanh nhạt; (6) các loại màu ngọc
quý, vàng ròng; (7) vàng, vật dụng bằng vàng.
1. Màu trắng
1. Màu trắng
a) Biểu tượng thế giới của Thiên Chúa (tóc
trắng, mây trắng, ngựa trắng, ngai màu trắng)
b) Biểu tượng sự sống lại (đoàn người mặc áo
trắng)
c) Biểu tượng sự chiến thắng (sỏi trắng, áo
trắng)
2.
Trong suốt, tinh khiết
Biểu tượng sự trang nghiêm, lộng lẫy, xứng
đáng. Thành Giê-ru-sa-lem mới bằng vàng ròng, giống như thuỷ tinh trong suốt
(21,21). Vị Hôn Thê mặc áo vải gai mịn, sáng chói, tinh tuyền (19,7-8).
3.
Màu đỏ
Gam màu đỏ (đỏ thẫm, đỏ tía, đỏ như lửa, màu
lửa, màu huỳnh ngọc) là màu của máu. Gam màu này ám chỉ chiến tranh, thế lực sự
ác và tội lỗi. Sách Khải Huyền dùng màu đỏ để ám chỉ thế lực của đế quốc Rô-ma
với hai khía cạnh:
a) Chiến tranh, bạo lực, bách hại và giết chết.
a) Chiến tranh, bạo lực, bách hại và giết chết.
b) Đời sống xa hoa và sa đọa qua hình ảnh
người đàn bà mặc áo đỏ tía và đỏ thẫm (17,4) ngồi trên Con Thú (17,3).
4.
Màu đen
Màu đen biểu tượng những tai hoạ (ngựa đen)
và các tai ương (mặt trời đen).
5.
Màu xanh nhạt
Ngựa màu xanh nhạt (6,8) là màu của xác
chết, ám chỉ chết chóc.
6.
Các loại ngọc quý, vàng ròng
Màu sắc của các loại đá quý, các loại ngọc
được sách Khải Huyền sử dụng để mô tả Thành Giê-ru-sa-lem mới. Tác giả kể ở
21,10b-11: “10b Vị Thiên sứ
chỉ cho tôi Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem xuống từ trời, từ Thiên Chúa, 11 có vinh
quang của Thiên Chúa, ánh quang của Thành giống như đá quý, như đá ngọc
thạch trong suốt tựa pha lê.”
Tác giả mô tả vật liệu để xây dựng Thành
Giê-ru-sa-lem mới là vàng ròng và các loại ngọc ở 21,18-21: “18 Vật liệu của
tường Thành là ngọc thạch và Thành bằng vàng ròng giống như thủy tinh trong
suốt. 19 Các nền móng của tường Thành được trang trí bằng mọi thứ đá quý: Nền
móng thứ nhất, ngọc thạch, thứ hai, lam ngọc; thứ ba, lục ngọc, thứ tư, bích
ngọc; 20 thứ năm, mã não; thứ sáu, xích não; thứ bảy, kim châu; thứ tám, lục
châu; thứ chín, hoàng ngọc; thứ mười, kim lục; thứ mười một, huỳnh ngọc; thứ
mười hai, tử ngọc. 21 Mười hai cổng là mười hai viên ngọc trai, mỗi một cổng
làm từ một viên ngọc duy nhất. Quảng trường của Thành bằng vàng ròng như thủy tinh
trong suốt.”
Mười hai loại đá quý và màu sắc của chúng,
cùng với mười hai viên ngọc trai và vàng ròng biểu tượng sự vững chắc, huy
hoàng, rực rỡ của “vinh quang Thiên Chúa” (21,11); đồng thời diễn tả sự hoàn
hảo, thịnh vượng và hạnh phúc của thực tại cánh chung.
7.
Vàng, vật dụng bằng vàng
Trong các màu sắc, kim loại, đá quý và các
loại ngọc được nói đến trong sách Khải Huyền, kim loại vàng (gold) xuất hiện
nhiều nhất (22 lần), kế đến là màu trắng (16 lần). Trong thế giới thuộc về
Thiên Chúa, các vật dụng được làm bằng vàng: Bàn
thờ bằng vàng (8,3b; 9,13), bình hương bằng vàng (8,3a), trụ đèn bằng vàng
(1,12.20; 2,1), triều thiên bằng vàng (4,4; 14,14; 9,7). Vật dụng bằng vàng bày
tỏ sự phú quý, lộng lẫy, nhằm diễn tả sự trang trọng, uy nghi và uy quyền của
Thiên Chúa.
Cũng như các vua chúa
trần gian sử dụng vàng, bạc, đá quý để bày tỏ vương quyền và sức mạnh, các thị
kiến mô tả triều đình Thiên Quốc cũng dùng vàng, bạc, đá quý để biểu tượng cho
vương quyền và sức mạnh của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô. Trong Sách Khải Huyền,
Con Chiên là Đức Ki-tô có tước hiệu: “Vua các vua, Chúa các chúa” (19,16). Vì thế, sự
giàu có, huy hoàng, uy quyền và sức mạnh của các hoàng đế Rô-ma và của các vua
chúa trần gian không thể so sánh được với Người. Quyền năng và uy lực của Đức Ki-tô vượt trên
quyền hành và sức mạnh của Xa-tan (12,3) và của Con Thú (13,1).
Kết luận
Sách Khải Huyền được
viết ra cho bảy Hội Thánh ở Tiểu Á trong hoàn cảnh bị đế quốc Rô-ma bách hại.
Các hoàng đế Rô-ma buộc mọi người trong đế quốc tôn thờ hoàng đế như một vị
thần (xem ý nghĩa mã số 666 hay 616) qua nghi thức tôn thờ hoàng đế công khai.
Các Ki-tô hữu không chấp nhận tôn thờ hoàng đế. Họ chỉ tôn thờ một mình Thiên
Chúa, nên bị bách hại và bị giết chết.
Câu hỏi đặt ra là số
phận những Ki-tô hữu bị giết chết vì trung tín với niềm tin vào Đức Ki-tô sẽ ra
sao? Trong lúc thế lực sự dữ đang thi thố sức mạnh trong lịch sử, Thiên Chúa đã
làm gì để bảo vệ người tin? Uy quyền và sức mạnh của Thiên Chúa so sánh như thế
nào với sự giàu sang và thế lực của đế quốc? Ai thực sự là kẻ chiến thắng, khi
trong thực tế, các Ki-tô hữu là những kẻ yếu thế và thất bại, bằng chứng là họ
bị bắt và bị giết chết?
Trong bối cảnh này,
sách Khải Huyền dùng đề tài “màu sắc, đá và kim loại quý” để đặt song song hai
thực tại: “Thực tại lịch sử” và “thực tại mặc khải”. Bản văn hàm ý so sánh
triều đình đế quốc Rô-ma với triều đình Thiên Quốc; so sánh sức mạnh và uy
quyền của các hoàng đế Rô-ma với sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa và của Con
Chiên là Đức Ki-tô. Sách Khải Huyền cho thấy: Không có sự huy hoàng lộng lẫy
nào ở trần gian (cụ thể là các cung điện của hoàng đế Rô-ma) có thể so sánh với
sự sang trọng và rực rỡ của Thành Giê-su-ra-lem mới. Không có sức mạnh nào của
các vua chúa trần gian (cụ thể là các vua chúa trong đế quốc Rô-ma) có thể so
sánh với sức mạnh và vương quyền của Đức Ki-tô. Bởi vì Người là “Vua các vua,
Chúa các chúa” (21,16), Người là “An-pha và Ô-me-ga” (22,13), là “Đấng Đầu Tiên và Cuối Cùng” (1,17; 2,8), “Đấng là
Khởi Nguyên và Tận Cùng” (22,13). Như thế, Thiên Chúa và Con Chiên bị sát tế là
Đức Ki-tô, mới thực sự là Chúa của lịch sử. Những mặc khải này là nguồn động
viên lớn lao cho các Ki-tô hữu trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách. (Xem
lời nói đầu Sách Khải Huyền Hy Lạp – Việt).
Tóm lại, đề tài “màu sắc, đá và kim loại quý” là đặc trưng độc đáo của sách Khải
Huyền, nhằm chuyển tải đến độc giả thông điệp thần học: Người Ki-tô hữu sống
trong trần gian có cơ sở để tin tưởng và cậy trông vào quyền năng và sức mạnh
của Thiên Chúa. Cho dù họ bị giết chết, nhưng họ thực sự là kẻ chiến
thắng và sống hạnh phúc. Sách Khải Huyền mô tả cuộc sống của những kẻ trung tín
với Đức Ki-tô cho đến cùng, với những lời đầy khích lệ ở Kh 7,14-17: “14 Họ là
những người đã đến từ cơn thử thách lớn lao, họ đã giặt áo của họ và tẩy trắng
áo mình trong máu của Con Chiên. 15 Vì điều này, họ ở trước ngai Thiên Chúa,
thờ phượng Người ngày và đêm trong Đền Thờ của Người, và Đấng ngự trên ngai sẽ
căng lều của Người trên họ. 16 Họ sẽ không còn phải đói, không còn phải khát,
mặt trời cũng như mọi sức nóng không còn đổ xuống trên họ nữa. 17 Vì Con Chiên
ở giữa ngai sẽ chăn dắt họ và dẫn đưa họ tới nguồn nước sự sống, và Thiên Chúa
sẽ lau mọi giọt lệ trên mắt họ.”
Ước mong độc giả tìm
được nguồn khích lệ và động viên khi đọc sách Khải Huyền, để từ đó xác tín, can đảm và trung kiên khi gặp thử thách trong cuộc sống. Những lời mặc khải mạnh mẽ
trong sách Khải Huyền làm cho độc giả nhận ra rằng: Dù hoàn cảnh có bi đát như
thế nào đi nữa, người tin vẫn có lý do để hy vọng và cậy trông. Trong mọi gian
nan, thử thách, người tin vẫn có bình an, thứ bình an đích thực Đức Giê-su ban
tặng. Bình an của Đức Giê-su không làm biến mất những thách đố, nhưng là bình
an ngay giữa cơn thử thách. Đó là thứ bình an có khả năng làm cho người tin
đứng vững và vượt qua mọi khốn khó./.
Tạ ơn Chúa về bài viết này.
Trả lờiXóaKhi nghiên cứu lời Chúa thì cách tốt nhất là chúng ta dùng chính Kinh thánh để giải nghĩa Kinh thánh (kẻo không khéo thì sinh ra chủ quan), cho nên chuyện phân tích từ ngữ theo bản văn gốc tiếng Hi Lạp như Linh mục từng làm là rất đáng hoan nghênh.
Xin góp ý với Linh mục là nên mở ngoặc trích dẫn tiếng Hi Lạp (có mã số STRONG) thì hay hơn là mở ngoặc bằng tiếng Anh. Ví dụ về màu sắc:
[G2063] ἐρυθρός [ĐỎ]
[G2847] κόκκινος [ĐỎ-TƯƠI]
[G4210] πορφυροῦς [ĐỎ-TÍA]
[G4450] πυρρός [ĐỎ-HỒNG]
[G3189] μέλας [ĐEN]
[G3022] λευκός [TRẮNG]
[G5515] χλωρός [XANH-LỤC]
Nguyện xin Thiên Chúa là đức Chúa Trời 3 ngôi thêm ơn cho Linh mục!
Xin cảm ơn độc giả đã khích lệ, động viên và có những góp ý thiết thực về chuyên môn.
Trả lờiXóaThực ra, tác giả bài viết cũng muốn đưa tiếng Hy Lạp vào để các từ ngữ được rõ ràng, nhưng trang blog này nhằm chia sẻ Kinh Thánh với đại chúng, nên chỉ để trong ngoặc tiếng Anh, nhờ đó có thể tra cứu và tìm hiểu thêm.
Những người biết tiếng Hy Lạp thì không khó khăn bao nhiêu trong việc truy tìm từ gốc. Vì thế, để bài viết được nhẹ nhàng và phù hợp với đại chúng, xin phép không đưa quá nhiều tiếng Hy Lạp vào bài viết mà chỉ để trong ngoặc tiếng Hy Lạp khi thực sự cần thiết mà thôi. Mong quý độc giả thông cảm./.
Kính thưa Cha giáo, qua bài viết mới này của Cha giúp con hiểu hơn về con số, về màu sắc trong sách Khải Huyền, đó là một trong những đề tài rất mới về Kinh Thánh, con ước mong sao Cha có nhiều đề tài hay và sâu sắc trong Kinh Thánh để cho những học trò và mọi người đọc để hiểu hơn về Kinh Thánh và ngày càng thêm xác tín vào sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, con cám ơn CHa Giáo.
Trả lờiXóaThưa Cha, sách Khải huyền là sách đọc rất khó hiểu, nhưng qua hai bài viết của Cha về những con số và những mầu sắc dđã làm cho những ai đã đọc đến đều cảm thấy rất dễ hiểu và thực tế, làm tăng thêm sự hấp dẫn cho bản văn thu hút người đọc, nhờ đó sẽ thêm niềm tin vào Thiên Chúa.
Trả lờiXóacon cám ơn Cha nhiều lắm, xin Chúa ban sức khỏe cho Cha.
Thưa Cha, trong cuộc chiến nếu một bên ra hiệu cờ trắng thì có nghĩa là đầu hàng vô điều kiện, là thua cuộc. Vậy ý nghĩa này có liên hệ gì với ý nghĩa biểu tượng sự chiến thắng trong TM Ga như Cha chia sẻ trong bài viết?
Trả lờiXóaÝ nghĩa cờ trắng là đầu hàng không được dùng trong sách Khải Huyền (chứ không phải TM Ga) và không có liên hệ gì với sách Khải Huyền cả. Màu trắng trong sách Khải Huyền được dùng để mô tả thế giới của Thiên Chúa chứ không phải thực tại trần gian. Trong sách Khải Huyền, màu trắng biểu tượng sự chiến thắng của những kẻ đã trung tín với niềm tin vào Đức Giê-su cho đến chết.
Xóa