Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 16 tháng 03 năm 2020.
Nội dung
I. Bản văn 19,31-37 và cấu trúc 19,16b-42
II. Phân tích đoạn văn 19,31-37
1. Máu và nước chảy ra
từ cạnh sườn (19,34)
2. Lời chứng của ai?
3. Thấy bằng mắt và thấy bằng lòng tin
4. Nội dung lời chứng
a) Ống chân không bị đánh gãy (19,33 //
19,36)
b) Cạnh sườn bị đâm thâu (19,34 //
19,37)
c) Lời chứng (19,35) và lời Kinh Thánh
(19,36-37)
5. Mục đích lời chứng:
“tin” (19,35d)
III. Làm chứng và viết ra lời
chứng (21,24a)
1. So sánh 19,35 và 21,24
2. Lời chứng đã được viết ra (21,24b)
Kết luận
Dẫn nhập
Như đã trình bày trong bài viết “‘Lời
chứng’ (marturia) và ‘làm chứng’ (martureô) trong Tin Mừng Gio-an”, danh từ “lời chứng” liên quan đến môn
đệ Đức Giê-su yêu mến xuất hiện 2 lần ở 19,35b; 21,24b, và động từ “làm chứng”
liên quan đến môn đệ này cũng xuất hiện 2 lần ở 19,35a; 21,24a. Bài viết phân
tích lời chứng trong hai câu trên qua ba mục: (I) bản văn Ga
19,31-37 và cấu trúc Ga 19,16b-42; (II) phân tích đoạn
văn 19,31-37; (III) làm chứng và viết ra lời chứng (21,24a).
I. Bản văn 19,31-37 và cấu trúc 19,16b-42
Lời
chứng ở 19,35 thuộc đoạn văn Ga 19,31-37, kể lại những điều xảy ra sau khi Đức
Giê-su tắt thở. Phần này trình bày (1) bản văn Ga 19,31-37 và (2) cấu trúc trình
thuật Thương Khó (Ga 19,16b-42).
(1) Người thuật chuyện kể ở Ga 19,31-37: “31 Vì là
ngày chuẩn bị lễ, những người Do Thái không
để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát –
mà ngày sa-bát đó là lễ lớn –, họ xin
Phi-la-tô để đánh gãy các ống chân của họ và mang xác đi. 32 Vậy lính tráng đến đánh gãy các ống chân người thứ nhất
và người khác cùng bị đóng đinh với Người (Đức Giê-su). 33 Nhưng khi đến gần Đức Giê-su, vì thấy Người đã
chết rồi, họ không đánh gãy các ống chân của Người. 34 Nhưng một trong
những người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn của Người, và ngay tức thì, máu và
nước chảy ra. 35 Người đã xem thấy (môn đệ Đức Giê-su yêu mến), đã làm chứng (mematurêken),
và lời chứng (hê marturia) của người ấy là xác thực; và người ấy biết
rằng mình nói sự thật để cả anh em nữa (độc giả), anh em tin. 36 Các việc này
đã xảy ra để Kinh Thánh nên trọn: ‘Không một xương nào của Người sẽ bị đánh
gãy.’ 37 Lại có lời Kinh Thánh khác nói: ‘Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.’”
(Xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư, Hy Lạp
– Việt).
(2) Đoạn văn 19,31-37 thuộc trình
thuật Thương Khó (19,16b-42). Khởi đầu bằng việc quân lính dẫn Đức Giê-su đi
đóng đinh (19,16b-18) và kết thúc bằng việc an táng Đức Giê-su trong ngôi mộ
mới (19,41-42). Trình thuật Thương Khó 19,16b-42 cấu trúc thành 7 tiểu đoạn:
“Lời chứng” và hành động “làm chứng” của môn đệ
Đức Giê-su yêu mến (19,35) thuộc tiểu đoạn 6 (19,31-37), thuật lại sự kiện Đức
Giê-su không bị đánh gãy ống chân nhưng Người bị lưỡi đòng đâm thâu.
II. Phân
tích đoạn văn 19,31-37
Theo Tin Mừng Gio-an, môn đệ Đức Giê-su yêu mến hiện
diện dưới chân thập giá (19,26a) nên môn đệ này là chứng nhân trực tiếp về cuộc
Thương Khó. Lời chứng của môn đệ này trong đoạn văn 19,31-37 được trình bày qua
qua năm mục: (1) máu và nước chảy ra từ cạnh sườn (19,34); (2) lời chứng của ai?;
(3) thấy bằng mắt và thấy bằng lòng tin; (4) nội dung lời chứng; (5) mục đích lời
chứng: “tin” (19,35d).
1. Máu và nước chảy ra
từ cạnh sườn (19,34)
Phần này tìm hiểu hình ảnh nước qua ba ý: (1) nước
chảy ra từ cạnh sườn (19,34) gợi về dòng nước sự sống (7,38); (2) hình ảnh nguồn
nước trong Cựu Ước; (3) Đức Giê-su ban Thần Khí khi trút hơi thở cuối cùng (19,30).
(1) Khi một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn
Đức Giê-su (19,34a), người thuật chuyện cho biết ở 19,34b: “Ngay tức thì, máu và
nước chảy ra.” Hình ảnh này gợi lại nguồn nước sự sống Đức Giê-su đã nói ở
7,37-38: “37 Vào ngày cuối cùng, ngày
long trọng nhất của dịp lễ, Đức Giê-su đứng lên và lớn tiếng nói: ‘Nếu ai khát
hãy đến với Tôi và hãy uống. 38 Người tin vào Tôi, như Kinh Thánh đã nói: Từ
lòng người ấy, sẽ tuôn chảy những dòng nước sự sống.’” Người thuật chuyện giải
thích ở 7,39: “Điều đó, Người [Đức Giê-su] nói về Thần Khí mà những người tin
vào Người sẽ lãnh nhận. Tuy nhiên Thần Khí chưa có, vì Đức Giê-su chưa được tôn
vinh.” Vậy “điều chưa có” ở 7,39 đã được thực hiện trên thập giá (19,34). Đó là
lúc Đức Giê-su được tôn vinh như Người đã nói với các môn đệ về giờ chết của
Người ở 12,23: “Giờ đã đến để Con Người được tôn vinh.”
(2) Trong Cựu Ước, hình ảnh nguồn
nước có nhiều ý nghĩa như: Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ (Is 12,3); Giê-ru-sa-lem,
nơi mọi dân tộc quy
tụ về (Dcr 14,8); người thực hành công chính trở thành nguồn suối nước không
thể khô cạn (Is 58,11). Có thể nói “mạch nước sự sống” ở Ga 4,14 và 7,38 biểu tượng
cho Lề Luật của Giao Ước mới được ghi khắc trong lòng con người. Trong viễn
cảnh này, Đức Giê-su trong Tin Mừng là Đấng thực hiện lời hứa về nguồn nước sự
sống trong Cựu Ước.
(3) Cách thức Tin Mừng Gio-an
mô tả Đức Giê-su chết gợi đến việc trao ban Thần Khí. Thật vậy, người thuật
chuyện kể ở Ga 19,30: “Khi đã nếm
giấm, Đức Giê-su nói: ‘Đã hoàn tất’, và Người gục đầu xuống trao thần khí.” Mô
tả trút hơi thở cuối cùng bằng kiểu nói: “Gục đầu xuống trao thần khí (paredôken
to pneuma)” là không bình thường trong văn chương thời đó. Vì thế, cụm từ
“trao ban thần khí (paredôken to pneuma)” (19,30d) gợi đến ban Thần Khí
(pneuma) ở 7,39. Đức Giê-su sẽ chính thức ban Thần Khí cho các môn đệ
sau khi Người Phục Sinh như được kể ở 20,21-22: “21 [Đức Giê-su] lại nói với các ông (các môn đệ): ‘Bình an cho
anh em. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.’ 22 Nói xong điều đó, Người
thổi hơi và nói với các ông: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.’” Từ “pneuma” trong mạch văn các trích dẫn
trên (7,39; 19,30; 20,22) cho phép
hiểu lúc Đức Giê-su trút hơi thở cuối cùng trên thập giá là lúc Người trao ban
Thần Khí (to pneuma) cho người tin.
2. Lời chứng của ai?
Ở 19,35a người thuật chuyện cho biết: “Người đã
xem thấy, đã làm chứng...” Bản văn không nói rõ là người môn đệ Đức Giê-su yêu
mến làm chứng, tuy nhiên theo mạch văn, lời chứng ở 19,35 là của môn đệ này chứ
không thể là ai khác. Thật vậy, trong đoạn
văn 19,23-42, các nhân vật là lính tráng (họ), thân mẫu Đức Giê-su, các phụ nữ
khác và môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Môn đệ này chứng kiến những gì đang xảy ra: Đức
Giê-su chịu đóng đinh, chết trên thập giá và những gì quân lính đã làm. Nên lời
chứng của “người đã xem thấy (ho heôrakôs)” (số ít) ở 19,35a là của môn
đệ Đức Giê-su yêu mến. Các nhân vật khác trong bản văn luôn được nói đến ở số
nhiều: “lính tráng”, “các phụ nữ”.
Ở 19,35c xuất hiện đại từ “ekeinos” (người
ấy): “Người ấy (ekeinos) biết rằng mình nói sự thật.” Từ Hy-lạp “ekeinos”
(người ấy) là đại từ chỉ định, giống đực, số ít. Dựa vào cách dùng đại từ này
trong Tin Mừng, một số tác giả cho rằng “người ấy” (ekeinos) ở 19,35c
chỉ về Thiên Chúa hay Đức Giê-su. Các tác giả này lập luận rằng đại từ nhấn
mạnh (cường điệu) “ekeinos”
thường chỉ về Đức Giê-su (xuất hiện 3 lần ở 1,18; 2,21; 3,28) và chỉ về Thiên Chúa
(xuất hiện 3 lần ở 1,33; 6,29; 8,42). Chúng tôi không đồng ý cách hiểu trên, vì
về mặt ngôn ngữ, đại từ nhấn mạnh “ekeinos” (người ấy) thay thế nhân vật
đã nói đến trước đó trong bản văn. Vì thế, “người ấy” (ekeinos) ở 19,35c
chỉ về “người đã xem thấy” ở 19,35a, và theo mạch văn, người này là môn đệ đứng
dưới chân thập giá. Vậy lời chứng ở 19,35 là của môn đệ Đức Giê-su yêu mến.
3. Thấy bằng mắt và thấy bằng lòng tin
Tương quan giữa thấy bằng mắt
(thấy thể lý) và thấy bằng lòng tin được phân tích qua hai điểm: (1) thấy bằng
mắt chưa đủ để làm chứng; (2) thấy bằng mắt kết hợp với lòng tin.
(1) Người thuật chuyện mở đầu
lời chứng ở 19,35a: “Người đã xem thấy, đã làm chứng.” Động từ “thấy” (horaô) trong Tin Mừng Gio-an
thường diễn tả hành động “thấy” đạt thấu mầu nhiệm mặc khải (xem 1,34; 19,35;
20,8.18.25.29…); đồng thời, động từ “horaô” (thấy), cùng với các động từ
khác (“theaomai”, “theôreô”, “blepô”) cũng có nghĩa “thấy”, diễn tả thấy thể lý, thấy bằng mắt
để làm chứng về điều mình đã chứng kiến. Trong Tin Mừng Gio-an không
phải hễ “thấy” là có thể “làm chứng”. Điều kiện trước tiên để làm chứng phải là
môn đệ Đức Giê-su, nghĩa là chỉ người tin vào Đức Giê-su mới có thể làm chứng
về Người. Trong đoạn văn 19,31-37, xét theo
bên ngoài, những gì môn đệ Đức Giê-su yêu mến đã thấy cũng là những gì quân
lính đã thấy. Nhưng quân lính không thể làm chứng vì họ không tin vào Đức
Giê-su.
(2) Trong trường hợp môn đệ
Đức Giê-su yêu mến, lời chứng của môn đệ này ở 19,35 rất đặc biệt dựa trên hai
yếu tố: chứng kiến tận mắt sự kiện và làm chứng với tư cách là môn đệ, nghĩa là
tin vào Đức Giê-su. Môn đệ Đức Giê-su yêu mến còn “thấy” những thực tại liên
quan đến đức tin mà quân lính không “thấy”. Chẳng hạn, môn đệ này nhận ra biến
cố Đức Giê-su chết trên thập giá trở thành nguồn sự sống cho người tin; những
gì xảy ra với Đức Giê-su đã ứng nghiệm các lời loan báo trong Cựu Ước v.v... Vì
chỉ người tin mới có thể làm chứng, nên mục đích của lời chứng là mời gọi tin
vào Đức Giê-su như người thuật chuyện kể ở 19,35c: “Người
ấy (môn đệ Đức Giê-su yêu mến) biết rằng mình nói sự thật để cả anh em nữa, anh
em tin” I. de La Potterie nhận định: “Đối
với Tin Mừng theo thánh Gio-an, chứng nhân không phải là người đã chứng kiến
các sự kiện, chứng nhân là người làm
chứng về lòng tin của mình” (I. de La
Potterie, La vérité dans saint Jean,
t. I: Le Christ et la vérité L’Esprit et
la vérité, (Analecta Biblica 73), Rome, Biblical Institute Press, 1977, p.
82).
Đối tượng của thấy bằng mắt cần được soi sáng bởi lòng tin mới có thể
làm chứng. Môn đệ Đức Giê-su yêu mến hội đủ các yếu tố để làm chứng về Đức
Giê-su, nên đây là lời chứng nền tảng đức tin cho các thế hệ môn đệ nối
tiếp nhau cho đến ngày nay. Tuy nhiên, không nhất
thiết phải “thấy” (horaô) bằng mắt để tin và để làm chứng. Đức Giê-su nói
với Tô-ma ở 20,29b: “Phúc cho những người không thấy mà là những người tin.” Người
tin qua mọi thời đại làm chứng về Đức Giê-su nhờ lòng tin.
4. Nội dung lời chứng
Lời chứng ở 19,35 vừa liên kết với những gì quân
lính đã làm, vừa liên kết với lời Kinh Thánh. Cấu trúc 19,33-37 cho thấy các yếu
tố song song: A, B, C, A’, B’:
Cấu trúc đoạn văn 19,33-37 đặt lời chứng của môn
đệ Đức Giê-su yêu mến (19,35) ở trung tâm (C). Hai hành động của quân lính: (A)
19,33: không đánh gãy các ống chân Đức Giê-su, và (B) 19,34: một người lính lấy
giáo đâm vào cạnh sườn Đức Giê-su, song song với hai lời Kinh Thánh: (A’) 19,36:
“Không một xương nào của Người sẽ bị đánh gãy”, gợi đến Xh 12,46b; Tv 34(33),21
và (B’) Ga 19,37: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu”, gợi đến Dcr 12,10; Kh
1,7. Theo thần học Tin Mừng Gio-an, những điều đã xảy ra ứng nghiệm lời Kinh
Thánh đã chép. Những biến cố xảy ra trong cuộc đời Đức Giê-su làm cho lời Kinh
Thánh được nên trọn, nên Đức Giê-su thực hiện lời Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước.
Phần sau triển khai đề tài qua ba điểm: (a) ống chân không
bị đánh gãy (19,33 // 19,36); (b) cạnh sườn bị đâm thâu (19,34 // 19,37); (c) lời
chứng (19,35) và lời Kinh Thánh (19,36-37).
a) Ống chân không bị đánh gãy (19,33 //
19,36)
Bản văn song song (19,33
// 19,36) cho biết việc quân lính không đánh gãy ống chân Đức
Giê-su (A. 19,33) đã làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Không một xương nào của
Người sẽ bị đánh gãy” (A’. 19,36). Lời này gợi lại chỉ thị Đức Chúa truyền cho
Mô-sê về việc ăn thịt chiên trong lễ Vượt Qua ở Xh 12,46: “Chỉ được ăn chiên
trong nhà mà thôi; không được mang thịt ra khỏi nhà. Các ngươi không được làm
gãy một chiếc xương nào của nó.” (Xem Bản dịch của NPD/CGKPV ấn bản 2011). Như thế, Đức Giê-su được đồng hoá với con
chiên dùng trong lễ Vượt Qua theo chỉ thị Đức Chúa truyền (Xh 12,43).
Lời Kinh Thánh ở Ga 19,36 cũng gợi về Tv 34(33),20-21:
“20 Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng CHÚA giúp họ luôn thoát
khỏi. 21 Xương cốt họ đều được CHÚA giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy.”
Thánh vịnh này nói về người công chính bị bách hại nhưng được Đức Chúa bảo vệ
chở che. Liên kết với Tv 34, bản văn Ga 19,36 khẳng định Đức Giê-su là người
công chính bị bách hại, tuy gặp nhiều nỗi gian truân nhưng được Thiên Chúa bảo
vệ, giữ gìn; bằng chứng là không một xương nào của Người bị đánh gãy.
b) Cạnh sườn bị đâm thâu (19,34 //
19,37)
Sự kiện cạnh sườn Đức Giê-su
bị đâm thâu (B. 19,34) làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ
đã đâm thâu” (B’.
19,37). Lời này gợi lại lời sấm của ngôn sứ Da-ca-ri-a ở Dcr 12,9-10: “9 Ngày
ấy, Ta (ĐỨC CHÚA) sẽ tìm cách tiêu diệt mọi dân tộc tiến đánh Giê-ru-sa-lem. 10
Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đa-vít và dân cư Giê-ru-sa-lem, giúp chúng biết sống
đẹp lòng Ta và tha thiết cầu nguyện. Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc
than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ
thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng.” Những câu này, thuộc phần
lời Đức Chúa phán về Ít-ra-en (Dcr 12–14), mang chiều kích cứu độ vào thời
Mê-si-a. Nhân vật bí ẩn trong Dcr 12,10b: “Đấng chúng đã đâm thâu” được thần học
Tân Ước đồng hóa với Đức Giê-su là
Đấng bị đâm thâu cạnh sườn. Người là Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa, Đấng được
Thiên Chúa sai đến để giải thoát và cứu độ nhân loại. Cạnh sườn Đức Giê-su bị
đâm thâu (B. 19,34) còn được sách Khải Huyền nói tới như dấu tích sự chiến
thắng dẫn đến kết quả con người đấm ngực, ăn năn hối cải. Tác giả sách Khải
Huyền viết ở Kh 1,7: “Kìa, Người (Đức
Giê-su Ki-tô) đến với đám mây, mọi con mắt sẽ thấy Người, cả những kẻ đã
đâm Người. Vì Người, tất cả các chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực. Đúng thế, a-men.” (Xem Sách Khải Huyền Hy Lạp – Việt, 2011.)
Tóm lại, Ga 19,37 gợi đến Dcr
12,10 và Kh 1,7. Liên hệ giữa các bản văn này vừa làm rõ ý nghĩa cái chết của
Đức Giê-su, vừa báo trước sự chiến thắng của Người, qua đó muôn dân sẽ nhận
biết và tin vào Người. Đức Giê-su đã nói với những người Do thái ý tưởng này ở Ga
8,28a: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết rằng Tôi
Là.” Nghĩa là khi Đức Giê-su chết trên thập giá, mọi người sẽ nhận biết căn
tính thần linh của Người và Người sẽ trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại. Đức
Giê-su cũng đã báo trước điều này cho đám đông ở Ga 12,32: “Phần Tôi, một khi
được giương cao khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi.” Trong viễn
cảnh này, thần học Tin Mừng Gio-an khẳng định giờ chết của Đức Giê-su là giờ
Người được tôn vinh; giờ Chúa Cha tôn vinh Người và Người tôn vinh Chúa Cha, như
Người đã nói với Cha trước biến cố
Thương Khó: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin tôn vinh Con của Cha, để Con tôn vinh
Cha” (Ga 17,1). Giờ thập giá là Giờ Đức Giê-su bày tỏ thiên tính của Người như
là “Đấng Ta Là”. (Xem bài viết “‘Ta Là’ (egô eimi) trong Tin Mừng
Gio-an.”
c) Lời chứng (19,35) và lời Kinh Thánh
(19,36-37)
Phân tích trên cho thấy môn đệ Đức Giê-su
yêu mến làm chứng (C. 19,35) về hai điều: (A. 19,33) chân của Đức Giê-su không
bị đánh gãy và (B. 19,34) nước và máu đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu. Song
song với hai điều này, người môn đệ này làm chứng là lời Kinh Thánh được ứng
nghiệm (A’. 19,36, B’. 19,37). Lời chứng này dựa trên những gì môn đệ này đã thấy tận mắt.
Hai động từ dùng trong câu: “Người đã xem thấy, đã làm chứng” (19,35a) là động
từ “thấy” (horaô) chia ở lối động tính từ (participe) thì hoàn
thành (parfait) và động từ “làm chứng” (martureô) chia ở lối
trình bày (indicatif) thì hoàn thành (parfait). Lời chứng của
người môn đệ (19,35) đã xảy ra trong quá khứ. Tuy nhiên, động từ “thấy” (horaô)
trong lời ứng nghiệm Kinh Thánh ở 19,37b lại chia ở thì tương lai: “Họ sẽ nhìn
lên Đấng họ đã đâm thâu” (19,37b). Như thế, lời chứng của người môn đệ đặt trong
quá khứ nhưng lại hướng về tương lai. Qua mọi thế hệ, lời chứng này dẫn đến
niềm tin vào Đức Giê-su. Mọi người chiêm ngắm Đấng bị đâm thâu như là Đấng cứu
độ. Ai đón nhận và tin vào Đức Giê-su thì máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Đấng
bị đâm thâu trở thành nơi người ấy nguồn nước đem lại sự sống đời đời (7,38).
5. Mục đích lời chứng:
“tin” (19,35d)
Mục đích lời chứng là để
độc giả “tin” như người thuật chuyện cho biết ở 19,35c: “Người
ấy (môn đệ Đức Giê-su yêu mến) biết rằng mình nói sự thật để cả anh em nữa, anh
em tin.” Chi tiết đáng lưu ý là người thuật
chuyện đột ngột ngưng kể câu chuyện để quay sang nói trực tiếp với độc giả qua đại
từ “anh em” (humeis), ngôi thứ hai số nhiều. Đại từ “anh em” (ngôi thứ hai)
trong câu này hàm ẩn đại từ “tôi, chúng tôi” (ngôi thứ nhất) của người thuật
chuyện. Kiểu hành văn ngỏ lời trực tiếp với độc giả (ngôi thứ hai) là đặc trưng
của Tin Mừng Gio-an (xem 1,14; 3,11-12; 20,30-31; 21,24). (Xem phân tích cách dùng đại từ ngôi thứ nhất và ngôi
thứ hai trong Người môn đệ Đức
Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư là ai?, tr. 224-231).
Vai trò làm chứng của
người môn đệ Đức Giê-su yêu mến ở 19,35 nhằm mời gọi cộng đoàn và độc giả qua
mọi thời đại, tin và tin mạnh mẽ vào Đức Giê-su ngay lúc Người chết trên thập
giá. Lời chứng còn nhấn mạnh uy thế của môn đệ này trong Tin Mừng và trong cộng
đoàn đón nhận Tin Mừng như R. A. Culpepper nhận định: “Câu này (19,35) cho biết tầm quan trọng của người môn đệ được yêu. Người môn đệ này là chứng nhân
cho những người tin sau này. Trình bày sự
hiện diện của môn đệ này vào lúc then chốt trong trình thuật Thương Khó là cách
thức để khẳng định hai điều: uy thế của người môn đệ này như là một
chứng nhân đích thực; hiểu ngầm uy thế và sự khả tín của sách Tin Mừng. Tin
Mừng có thể tin được, vì Tin Mừng dựa trên lời chứng của môn đệ thân cận nhất với
Đức Giê-su, người môn đệ này đã hiện diện khi Đức Giê-su chết, đã thấy Chúa sống
lại, và đã mang đến một bằng chứng chân thật.” (R. A. Culpepper, John, the Son of
Zebedee. The Life of a Legend, (SPNT),
Columbia (SC), University of South Carolina Press, 1994, p. 66).
Tóm lại, lời chứng
của môn đệ Đức Giê-su yêu mến ở 19,35 bao gồm bốn yếu tố: (1) lời chứng dựa vào
những gì đã chứng kiến: “Người đã xem thấy đã làm chứng” (19,35a); (2) lời
chứng theo đúng sự thật: “Lời chứng của người ấy xác thực” (19,35b); (3) người
làm chứng ý thức mình nói sự thật: “Người ấy biết rằng mình nói sự thật”
(19,35c); (4) mục đích của lời chứng là tin: “để cả anh em nữa, anh em tin”
(19,35d). Trong kết luận
thứ hai sách Tin Mừng, soạn giả khẳng định lại lời chứng xác thực của môn đệ
Đức Giê-su yêu mến ở Ga 21,24.
Trong chương cuối Tin
Mừng thứ tư (ch. 21), soạn giả dựa vào lời chứng của môn đệ Đức Giê-su yêu mến để
kết luận sách Tin Mừng (21,24-25). Qua đó vừa khẳng định uy thế của môn đệ này,
vừa bảo đảm tính xác thực nội dung sách Tin Mừng. Soạn giả viết ở 21,24: “Chính
môn đệ này (môn đệ Đức Giê-su yêu mến) là người làm chứng (ho marturôn) về những điều đó và là người đã viết những điều đó
và chúng tôi biết rằng lời chứng (hê marturia) của người ấy là xác thực.”
Phần sau bàn về lời chứng và vai trò soạn giả qua hai điểm: (1) so sánh 19,35 và
21,24; (2) lời chứng đã được viết ra 21,24b.
1. So sánh 19,35 và 21,24
Ga 21,24 có hai chi
tiết song song với 19,35, đồng thời mỗi
câu có một chi tiết riêng:
Đề tài “làm chứng” ở 19,35 song song với 21,24
về hai chi tiết: (1) Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến đã làm chứng (19,35a //
21,24a), và (2) đó là lời chứng xác thực (19,35b.35c // 21,24c). Mỗi câu có một
chi tiết riêng: 19,35d cho biết mục đích của lời chứng là “để tin”; còn 21,24b
cho biết môn đệ Đức Giê-su yêu mến đã viết lời chứng của mình. Như thế có bốn
điều liên quan đến lời chứng của người môn đệ này: (1) đã thấy và đã làm chứng
(19,35a // 21,24a); (2) lời chứng xác thực, có uy thế và đáng tin cậy (19,35b.35c
// 21,24c); (3) mục đích của lời chứng là để độc giả tin vào Đức Giê-su
(19,35d); (4) lời chứng đã được ghi lại trong sách Tin Mừng (12,24b).
Ở 21,24, nội dung lời
chứng là “những điều đó” (toutôn). Theo nghĩa hẹp, từ “toutôn” (những
điều đó) chỉ những gì đã xảy ra trong biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Theo
nghĩa rộng, “toutôn” (những điều đó) gợi đến tất cả hành động và lời nói
của Đức Giê-su trong sứ vụ của Người.
2. Lời chứng đã được viết ra (21,24b)
Môn đệ Đức Giê-su yêu
mến là “người đã viết” (hô grapsas) “những điều đó” (21,24b). Như thế, lúc
soạn giả viết kết luận thứ hai (21,24-25) thì đã có bút tích của môn đệ này. Có
thể nói, cốt lõi bản văn Tin Mừng là lời chứng của môn đệ Đức Giê-su yêu mến,
nhưng độc giả không biết đoạn văn nào trong Tin Mừng hiện nay là do tay người
môn đệ này viết. Người biên soạn Tin Mừng (soạn giả ch. 21) đã sắp xếp, triển
khai, thêm bớt các đoạn văn để làm thành sách Tin Mừng như chúng ta có hiện
nay. Rất có thể soạn giả đã thống nhất bản văn từ đầu đến cuối, vừa giữ lại những
điểm độc đáo bản văn đã có, vừa xây dựng một nền thần học chung của toàn bộ
sách Tin Mừng. Để hiểu tính năng động
trong quá trình biên soạn Tin Mừng thứ tư, có thể phân biệt ba nhân vật thuộc
ba giai đoạn chính trong quá trình hình thành Tin Mừng: (1) bút tích của môn đệ Đức Giê-su yêu mến (21,24); (2) tác giả sách
Tin Mừng (évangéliste) viết Ga 1–20 với kết luận ở 20,30-31; (3) soạn
giả (rédacteur), biên soạn ch. 21, sắp xếp lại, thêm bớt một số đoạn văn
để làm thành bản văn Tin Mừng hiện nay. (Xem phân tích hai kết luận Tin
Mừng trong Người môn đệ Đức
Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư là ai?, tr.
232-236).
Soạn giả ch. 21 dùng đại
từ ngôi thứ nhất số nhiều “chúng tôi” để nói trực tiếp với độc giả ở 21,24c: “Chúng
tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực.” Đây là lời xác quyết về tính
trung thực và liên tục của lời chứng được lưu truyền từ người môn đệ Đức Giê-su
yêu mến
đến soạn giả sách Tin Mừng. Soạn giả còn tự xưng là “tôi” (đại từ ngôi thứ nhất,
số ít) ở 21,25: “Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm, nếu viết lại từng
điều một, tôi thiết nghĩ cả thế
gian cũng không chứa nổi các sách được viết ra.” Cách xưng hô “chúng
tôi” ở 21,24c cho thấy soạn giả không phải là một người đơn độc. Soạn giả là
thành phần của một nhóm, một truyền thống, một trường phái, gọi là “trường phái
Gio-an” (l’école johannique, Johannine school). Tập thể này đã cưu mang
truyền thống thần học Gio-an và góp phần biên soạn và xuất bản Tin Mừng hiện
nay qua nhiều giai đoạn. Cách xưng hô “tôi” (số ít) ở 21,25 xác định soạn giả chịu
trách nhiệm về nội dung Tin Mừng, dựa trên uy thế của người môn đệ Đức Giê-su
yêu mến. Xem bài viết “Ga 21,20-25. Vận mệnh, bút tích, lời chứng của môn đệ Đức
Giê-su yêu mến”).
Kết luận
Đề tài “lời chứng” của môn đệ Đức Giê-su yêu mến
chỉ xuất hiện ở 2 câu trong Tin Mừng (19,35 và 21,24) nhưng có tầm quan trọng đặc
biệt đối với cộng đoàn Gio-an và độc giả qua mọi thời đại. Có thể tóm tắt phân tích
trên qua ba ý sau:
(1) Lời chứng của môn đệ Đức Giê-su yêu mến là lời
chứng xác thực, có uy tín và đáng tin cậy, vì người môn đệ này vừa chứng kiến
biến cố bằng con mắt thể lý, vừa nhìn thấu sự kiện bằng con mắt đức tin. Đối
tượng của lời chứng là Đức Giê-su, sứ vụ của Người, biến cố Thương Khó – Phục
sinh. Những gì đã xảy ra đã làm trọn lời Kinh Thánh.
(2) Mục đích của lời chứng là dẫn đưa độc giả đến niềm
tin và đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su. Vì thế, nếu lời chứng chưa dẫn độc giả
đến lựa chọn tin thì vẫn chưa đạt mục đích của trình thuật: “để cả anh em
nữa, anh em tin” (19,35d).
(3) Lời chứng được ghi chép lại trong sách Tin
Mừng và được đặt trong một truyền thống: bắt đầu từ bút tích của môn đệ Đức
Giê-su yêu mến, tiếp đến là tác giả (évangéliste)
và cuối cùng soạn giả (rédacteur)
xuất bản sách Tin Mừng. Mặc khải đúng sự thật trong Tin Mừng là lời
mời gọi độc giả đón nhận lời chứng để rồi làm chứng về Đức Giê-su./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/10/loi-chung-va-lam-chung-cua-nguoi-mon-e.html
cám ơn cha! những nỗ lực của cha..........sẽ như là những dấu chứng, mặc dù ngày nay người ta chẳng mấy khi tìm và lắng nghe "lời mang lại sự sống thật". Nhưng với Chúa Giêsu thì không cái gì làm bởi lòng yêu mến mà lại ra vô ích. chắc chắn Người vui lòng vì việc cha làm và chắc chắn sẽ có ai đó được tin nhờ những lời chứng mà cha đang cố diễn đạt...
Trả lờiXóaThưa cha giáo, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến đã có những lời chứng rất xác thực và đáng tin cậy như cha đã trình bày ở phần kết luận, vậy người môn đệ Đức Giê-su yêu mến đã làm chứng trong chính cuộc sống của người môn đệ đó như thế nào, để mọi người ở mọi thời đại cũng nhận biết Đức Kitô, và cũng can đảm làm chứng như môn đệ đó ???? cám ơn cha.
Trả lờiXóaĐể biết người môn đệ Đức Giê-su yêu mến “đã làm chứng trong chính cuộc sống của người môn đệ đó như thế nào, để mọi người ở mọi thời đại cũng nhận biết Đức Kitô, và cũng can đảm làm chứng như môn đệ đó” thì chỉ cần tìm hiểu về người môn đệ này đã làm gì và đã sống như thế nào trong sách Tin Mừng. Khi đã biết thì hãy làm và hãy sống như người môn đệ này đã làm và đã sống. Xem bài viết: “Bốn môn đệ vô danh trong Tin Mừng Gio-an” (địa chỉ: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/08/bon-mon-e-vo-danh-trong-tin-mung-gio.html).
XóaThat tuyet bai chia chia se Tin Mung cua Cha. Muon ngan loi cam on Cha. Phai chang do la Than khi noi tai cua Thien Chua noi cung long Cha dang tuon chay .... ? Thua Cha, khi noi den mon de Chua Gie- su yeu, theo suy nghi han hep cua con , dieu do khong co y noi Chua Gie- su co tinh cam thien vi voi nguoi mon de nay, nhu Thanh Gio- an da viet : Nguoi da yeu men cac mon de nen yeu men den cung ... C'est pour eux , je me consacre moi- même...??? Gio- an , Nguoi mon mon de duoc ngup lan trong bien tinh cua Chua Gie- su trong suot cuoc hanh trinh theo Chua va nhat la da lam chung tinh yeu dien dai do duoi chan thap gia , con nghi da cam nghiem mot cach sau xa the nao la nguoi duoc yeu va the nao la tinh yeu cua Chua. Phai chang su lam chung cho tinh yeu ay da lam lat do nhung quan niem cua con nguoi ve Thien Chua noi cac ton giao khac va noi cac hien triet Hy Lap ? Con yeu men Thanh Gio- an co le o diem do. Xin Cha giup lam sang to them Xin chan thanh cam on truoc.
Trả lờiXóaCảm ơn độc giả đã có lời động viên. Không ai có thể làm được việc gì tốt đẹp nếu không có sự tác động, soi sáng và hướng dẫn của Đấng Pa-rác-lê, Thần Khí sự thật. Tôi đã được đón nhận qua việc học hành và chiêm niệm, bây giờ chia sẻ lại những gì mình đã cảm nhận được về Lời Chúa để mong mọi người yêu thích khi đến với Lời.
XóaNhân vật môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng Gio-an có vị trí đặc biệt. Không phải Đức Giê-su yêu riêng môn đệ này, nhưng tình yêu của Đức Giê-su dành cho người môn đệ và cách thức môn đệ này đáp trả lại tình yêu của Đức Giê-su là gương mẫu cho tất cả các môn đệ qua mọi thế hệ. Môn đệ này là gương mẫu về sự thân tình, về lòng trung tín, về lòng tin, về sự nhận biết và về việc làm chứng. Tất cả mọi người tin được mời gọi đồng hoá với người môn đệ này.
Xem loạt bài về người môn đệ này trong mục tìm hiểu Tin Mừng Gio-an:
1- Bốn môn đệ vô danh trong Tin Mừng Gio-an.
2- “TÔNG ĐỒ GIO-AN” trong Tin Mừng Nhất Lãm và “MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊ-SU YÊU MẾN” trong Tin Mừng thứ tư.
3- Ai là tác giả sách Tin Mừng Gio-an?
4- “Ông đã thấy và đã tin”. Ai thấy? Thấy gì? Tin gì? (Ga 20,1-9).