19/03/2020

Đấng Pa-rác-lê là ai? (TM Gio-an)


Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 19 tháng 03 năm 2020.


Nội dung

Dẫn nhập
I. Tại sao dùng từ “Đấng Pa-rác-lê”?
    1. “Paraklêtos” trong Tin Mừng và cách dịch
    2. Paraklêtos trong văn chương Hy-lạp
    3. Chuyển âm Hy-lạp sang tiếng Việt: “Đấng Pa-rác-lê”
II. Sứ vụ và vai trò Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng
    1. Ga 14,15-17. lại mãi mãi với các môn đệ
    2. Ga 14,25-26. Dạy và làm cho nhớ lại
    3. Ga 15,26-27. Làm chứng trướctrong các môn đệ
    4. Ga 16,7-11. Chứng minh thế gian sai lầm
    5. Ga 16,12-15. Dẫn đường, loan báo, tôn vinh
Kết luận



Dẫn nhập

Độc giả có thể thắc mắc về ý nghĩa danh xưng “Đấng Pa-rác-lê” trong Tin Mừng Gio-an. Bài viết trả lời câu hỏi “Đấng Pa-rác-lê là ai?” qua hai mục: (I) Tại sao dùng từ “Đấng Pa-rác-lê”? (II) Sứ vụ và vai trò Ðấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng Gio-an.

I. Tại sao dùng từ “Đấng Pa-rác-lê”?

Tại sao không dịch ra tiếng Việt mà lại dùng từ “Đấng Pa-rác-lê”? Phần sau trả lời câu hỏi này qua ba điểm: (1) “paraklêtos” trong Tin Mừng và cách dịch; (2) paraklêtostrong văn chương Hy-lạp; (3) chuyển âm Hy-lạp sang tiếng Việt: “Đấng Pa-rác-lê”.

    1. “Paraklêtos” trong Tin Mừng và cách dịch

Danh xưng “Đấng Pa-rác-lê” là chuyển âm từ tiếng Hy-lạp “paraklêtos”. Trong Tin Mừng thứ tư, “Đấng Pa-rác-lê” (ho paraklêtos) là “Thánh Thần” (to pneuma to hagion)” (Ga 14,26) và là “Thần Khí sự thật” (to pneuma tês alêtheias)” (Ga 14,17; 15,26). Trong toàn bộ Kinh Thánh, “Đấng Pa-rác-lê, Thần Khí sự thật” chỉ xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an (không xuất hiện trong tất cả các sách khác của bộ Kinh Thánh). Trong thư thứ nhất Gio-an, xuất hiện 1 lần từ “paraklêtos” và áp dụng cho Đức Giê-su (1Ga 2,1) chứ không phải là Đấng Pa-rác-lê – Thánh Thần.

Trong Tin Mừng Gio-an, Đấng Pa-rác-lê xuất hiện ở năm đoạn văn: (1) 14,15-17; (2) 14,25-26; (3) 15,26-27; (4) 16,7-11; (5) 16,12-15. Cả năm đoạn văn này thuộc 3 chương: Ga 14–16. Chi tiết các đoạn văn sẽ được trình bày trong phân tích dưới đây. Khi đọc năm đoạn văn trên trong các bản dịch Kinh Thánh, độc giả thấy nhiều cách dịch từ Hy-lạp “paraklêtos”. Chẳng hạn tiếng Việt: “Đấng Bảo Trợ” (NPD/CGKPV); “Đấng Bàu Chữa” (Nguyễn Thế Thuấn, 1976); tiếng Pháp: “le Consolateur” (Louis Segond, 1910); tiếng Anh: “the Comforter” (KJV, 1997), “the Counsellor” (NIV, 1984); “the Helper” (NKJV, 1982); “the Advocate” (NRS, 1989). Để hiểu những cách dịch trên cần tìm hiểu nghĩa từ “paraklêtos” trong văn chương Hy-lạp.

    2. Paraklêtos trong văn chương Hy-lạp

Danh từ “paraklêtos” trong văn chương Hy-lạp chỉ người bênh vực (défenseur) hay luật sư (avocat). Philon d’Alexandrie viết: “Bạn không có chút thuận lợi nào để mong chờ ở người nắm quyền lực. Chúng ta phải tìm một người bênh vực (paraklêton) có toàn quyền để làm cho Caius [Hoàng đế Caligula] thuận theo chúng ta.” (In Flaccum, 22. Trích dẫn lấy trong Les œuvres de Philon d’Alexandrie, XXXI, In Flaccum [dịch giả: A. Pelletier], Paris, Le Cerf, 1967, p. 58-61).

Danh từ “paraklêtos” chuyển hóa từ động từ “parakaleô” có nghĩa “được gọi đến bên cạnh” (appeler auprès de, à côté de). M. Gourgues định nghĩa danh từ “paraklêtos” như sau: “Đấng Pa-rác-lê chỉ người – bằng những lời khuyên của mình, bằng sự hiện diện của mình, bằng lời chứng của mình – đứng ra bảo vệ một người khác khi cần thiết. Theo sát nghĩa, đó là người đứng bên cạnh một người khác để trợ giúp người ấy.” (M. Gourgues, En Esprit et en Vérité, Piste d’exploitation de l’évangile de Jean, (Sciences Bibliques 11), Montréal, Médiaspaul, 2002, p. 284).

Nói chung, trong văn chương Hy-lạp, paraklêtos là người can thiệp trong khung cảnh vụ kiện. Tác giả I. de La Poterie nhận xét: “Trong những bản văn cổ Hy-lạp cũng như trong các tài liệu các thầy Do Thái, từ này luôn đặt chúng ta trong bối cảnh ít nhiều mang tính pháp lý: ‘Một pa-rác-lê’ là người đến giúp đỡ người nào đó, thường là người bị buộc tội, bằng cách hiện diện như là luật sư của người ấy, như là người bảo vệ hay người chuyển cầu của người ấy.” (I. de La Potterie, La vérité dans saint Jean, t. I, Le Christ et la vérité. L’Esprit et la vérité, (AnBib 73), Rome, Biblical Institute Press, 1977, p. 332).

Tóm lại, paraklêtos” là người có vai trò pháp lý trong khung cảnh một vụ kiện. Paraklêtos là người đứng ra bênh vực người đang bị kiện cáo trước toà. Theo nghĩa này, có thể dịch “paraklêtos” là “trạng sư”, “luật sư”, “người bào chữa”, “người bênh vực”... Tuy nhiên, “paraklêtos” trong Tin Mừng thứ tư, không làm những nhiệm vụ trên. Phần trình bày vai trò của Ðấng Pa-rác-lê dưới đây cho thấy Tin Mừng dùng từ “paraklêtos” theo nghĩa khác với các nghĩa trong văn chương Hy-lạp. Vậy nếu dịch từ này sẽ không diễn tả hết ý nghĩa từ “paraklêtos” trong Tin Mừng. Nếu cần chuyển âm sang tiếng Việt thì chuyển thế nào?

    3. Chuyển âm Hy-lạp sang tiếng Việt: “Đấng Pa-rác-lê”

Chúng tôi đồng thuận với nhiều tác giả và nhiều bản dịch lựa chọn giữ nguyên ngữ từ “paraklêtos” trong Tin Mừng Gio-an. Chẳng hạn “Paracletus” (VUL, 1983); “le Paraclet” (TOB, 1998; BJ, 2000; OSTY, 1973; Jeanne d’Arc, Évangile selon Jean, Présentation du texte grec, traduction et notes, [Les évangiles], Paris, Les Belles Lettres – DDB, 1990; Y. Simoens, Selon Jean, 1. Une traduction, Bruxelles, IET, 1997); “the Paraclete” (NJB, 1985) v.v...

Danh từ Hy-lạp “paraklêtos” có bốn âm tiết: “Pa-rak-lê-tos”, nếu giữ được cả bốn âm tiết này trong tiếng Việt thì tốt, vì sát với tiếng gốc Hy-lạp. Tuy nhiên, giữ cả bốn âm tiết trong tiếng Việt có thể quá xa lạ và quá chuyên môn đối với nhiều độc giả. Để dễ đọc và không quá phức tạp, thiết nghĩ ba âm tiết là đủ. Từ chuyển âm sang tiếng Việt là “Pa-rác-lê”, ba âm tiết này dễ đọc và gần gũi với tiếng Việt hơn. Ngay cả tiếng Pháp và tiếng Anh cũng chỉ lấy ba âm tiết đầu của danh từ Hy-lạp “paraklêtos”: “le Paraclet” (tiếng Pháp), the Paraclete” (tiếng Anh).

Việc chuyển âm danh từ Hy-lạp “paraklêtos” sang tiếng Việt “Đấng Pa-rác-lê” cũng không hoàn toàn xa lạ, vì một số tước hiệu của Đức Giê-su trong Tân Ước cũng được giữ nguyên ngữ và chuyển âm tiếng Việt như: “Khristos” (Đức Ki-tô); “Messias” (Đấng Mê-si-a). Từ “Đấng” thêm vào “Pa-rác-lê” (Đấng Pa-rác-lê) để bày tỏ sự kính trọng, cũng như các từ “Đức” trong “Đức Giê-su” và “Đấng” trong “Đấng Mê-si-a”. Trong bản văn Hy-lạp (Paraklêtos, Khristos, Messias) không có các từ “Đức” và “Đấng”. Gọi là “Ðấng” vì “Ðấng Pa-rác-lê” xuất phát từ nơi Chúa Cha (Ga 15,26) và Người nối tiếp sứ vụ Đức Giê-su nơi các môn đệ.

II. Sứ vụ và vai trò Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng

Trong Tin Mừng Gio-an, hoạt động của Đấng Pa-rác-lê được trình bày trong bối cảnh pháp lý. Điều này phù hợp với thần học Tin Mừng. Vì toàn bộ sách Tin Mừng được trình bày như một vụ kiện, đó là vụ kiện giữa Ánh Sáng và bóng tối, giữa Đức Giê-su và những kẻ chống đối, giữa các môn đệ và thế gian thù ghét. Trong bối cảnh vụ kiện này, Đấng Pa-rác-lê sẽ làm chứng (marturêsei) cho Đức Giê-su (15,26) và chứng minh (elegzei) thế gian sai lầm (16,8). Tuy nhiên, theo Tin Mừng, Đấng Pa-rác-lê không có liên hệ trực tiếp với những kẻ chống đối và với thế gian thù ghét. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,17a: “Thần Khí sự thật là Đấng thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy, không biết Người.” Thế gian chống đối, không tin, ghét Đức Giê-su và ghét các môn đệ, nên thế gian “không thấy”, “không biết” và “không đón nhận Đấng Pa-rác-lê”. Vì không có giao tiếp giữa “thế gian” và “Đấng Pa-rác-lê” nên Đấng Pa-rác-lê không biện hộ cho các môn đệ trước tòa án thế gian. Vậy, Đấng Pa-rác-lê làm gì? Vai trò và sứ vụ của Đấng Pa-rác-lê theo thần học Tin Mừng được trình bày qua năm đoạn văn: (1) 14,15-17; (2) 14,25-26; (3) 15,26-27; (4) 16,7-11; (5) 16,12-15.

    1. Ga 14,15-17. lại mãi mãi với các môn đệ

Trong đoạn văn thứ nhất, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,15-17: “15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy; 16 và chính Thầy sẽ can thiệp với Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Pa-rác-lê khác để Người ở với anh em mãi mãi. 17 Thần Khí sự thật là Đấng thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Người. Còn anh em, anh em biết Người, vì Người ở lại giữa anh em và Người sẽ ở trong anh em.” (Xem Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ).

Vai trò thứ nhất của Đấng Pa-rác-lê là “ở lại mãi mãi” với các môn đệ. Bản văn nhấn mạnh đề tài “ở lại” bằng cách dùng ba giới từ Hy-lạp: “meta(với), “para” (giữa) và “en” (trong). Đấng Pa-rác-lê là Đấng “ở với các môn đệ”, “ở trong từng môn đệ” và “ở giữa cộng đoàn các môn đệ”. Đặc điểm hành động “ở lại” là “mãi mãi”. Có lẽ cộng đoàn Gio-an đang ở trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách, nên đã không nhận ra Đấng Pa-rác-lê đang ở với, đang đồng hành với mình, nên bản văn nhấn mạnh ý tưởng “ở lại” trong bản văn. Đồng thời cho độc giả biết tầm quan trọng của đề tài này.

    2. Ga 14,25-26. Dạy và làm cho nhớ lại

Đức Giê-su nói với các môn đệ trong đoạn văn thứ hai về Ðấng Pa-rác-lê ở 14,25-26: “25 Những điều này Thầy đã nói với anh em khi còn ở lại với anh em; 26 nhưng Đấng Pa-rác-lê, Thánh Thần, Đấng mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng Pa-rác-lê  sẽ dạy anh em tất cả và sẽ làm cho anh em nhớ lại tất cả những gì [chính] Thầy đã nói với anh em.”

Đoạn văn trên nói về vai trò giảng dạy của Đấng Pa-rác-lê. Đối tượng giảng dạy là các môn đệ. Nội dung giảng dạy là tất cả những gì Đức Giê-su đã nói. Cách thức giảng dạy gồm hai khía cạnh: (1) những gì Đức Giê-su đã nói mà các môn đệ chưa biết, chưa hiểu thì Đấng Pa-rác-lê sẽ dạy cho các môn đệ biết; (2) những gì các môn đệ đã biết, đã hiểu, nhưng quên, thì Đấng Pa-rác-lê sẽ “làm cho các môn đệ nhớ lại”. Như thế, trong đoạn văn này, Đấng Pa-rác-lê giữ vai trò Thầy dạy, chứ không phải là luật sư hay người bênh vực.

    3. Ga 15,26-27. Làm chứng trướctrong các môn đệ

Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,26-27: “26 Khi Đấng Pa-rác-lê đến, Đấng mà chính Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Cha, Người là Thần Khí sự thật, Người xuất phát từ nơi Cha, Đấng Pa-rác-lê sẽ làm chứng về Thầy. 27 Cả anh em, anh em cũng làm chứng, vì từ khởi đầu, anh em ở với Thầy.”

Trong đoạn văn thứ ba, Đấng Pa-rác-lê giữ vai trò “làm chứng cho Đức Giê-su” (15,26), đồng thời nối kết với vai trò làm chứng của các môn đệ (15,27). Như đã trình bày, thế gian không thấy, không biết, không đón nhận Đấng Pa-rác-lê, nên Đấng Pa-rác-lê không làm chứng cho Đức Giê-su trước thế gian. Mạch văn cho phép hiểu Đấng Pa-rác-lê, sẽ làm chứng về Đức Giê-su trướctrong các môn đệ. Đấng Pa-rác-lê làm chứng về Đức Giê-su “trước” các môn đệ, để họ biết Đức Giê-su là ai, từ đó vững tin và không vấp ngã vì thử thách và bách hại. Đồng thời, Đấng Pa-rác-lê làm chứng “trong” các môn đệ khi họ phải đối diện trực tiếp với thế gian thù ghét, nhờ đó các môn đệ can đảm làm chứng về Đức Giê-su.

    4. Ga 16,7-11. Chứng minh thế gian sai lầm

Trong đoạn văn thứ tư, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở Ga 16,7-11: “7 Chính Thầy nói sự thật với anh em: Sẽ có lợi cho anh em nếu Thầy ra đi. Nếu Thầy không ra đi, Đấng Pa-rác-lê sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em. 8 Khi Đấng ấy đến, Người sẽ chứng minh thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử. 9 Về tội: Họ không tin vào Thầy. 10 Về sự công chính: Thầy đi về với Cha, và anh em không còn thấy Thầy. 11 Về sự xét xử: Thủ lãnh của thế gian này đã bị xét xử.”

Đấng Pa-rác-lê chỉ hoạt động nơi các môn đệ chứ không đối diện trực tiếp với thế gian. Người sẽ chứng minh cho các môn đệ biết là thế gian sai lầm (16,8) về ba điều: (1) thế gian có tội (16,9); (2) sự công chính thuộc về Đức Giê-su (16,10); (3) thủ lãnh thế gian đã bị xét xử rồi (16,11). Nói cách khác, Đấng Pa-rác-lê làm cho các môn đệ biết sự thật về thế gian thù ghét.

    5. Ga 16,12-15. Dẫn đường, loan báo, tôn vinh

Trong Đoạn văn thứ năm, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở Ga 16,12-15: “12 Thầy vẫn có nhiều điều để nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không thể mang nổi. 13 Khi Đấng Pa-rác-lê đến, Thần Khí sự thật, Đấng ấy sẽ dẫn anh em đi trong sự thật toàn vẹn; Người sẽ không nói tự mình, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và Người sẽ loan báo cho anh em những điều sẽ xảy đến. 14 Đấng ấy sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. 15 Mọi sự Cha có đều là của Thầy. Vì điều này Thầy đã nói: ‘Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.’”

Ở đây Đấng Pa-rác-lê giữ vai trò dẫn đường. Người sẽ dẫn các môn đệ đi trong sự thật toàn vẹn (16,12). Con đường ấy là Đức Giê-su và sự thật ấy cũng chính là Đức Giê-su. Người đã nói với các môn đệ ở 14,6: “Chính Thầy là con đường và là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Kế đến, Đấng Pa-rác-lê sẽ lấy những gì là của Đức Giê-su mà loan báo cho các môn đệ. Đặc biệt Ðấng Pa-rác-lê tôn vinh Đức Giê-su.

Kết luận

Trích dẫn năm đoạn văn trên cho thấy Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng Gio-an có những hoạt động phong phú, đa dạng so với nghĩa pháp lý của từ “paraklêtos” trong văn chương Hy-lạp. Có thể so sánh hai nghĩa của từ “paraklêtos” như sau: Trong văn chương Hy-lạp, “paraklêtos” thi hành nhiệm vụ trong một vụ kiện, “paraklêtos” là người bênh vực cho bị cáo trước toà, như là một luật sư, trạng sư... Trong Tin Mừng Gio-an, Đấng Pa-rác-lê không biện hộ cho các môn đệ trước toà thế gian vì thế gian không biết và không đón nhận Đấng Pa-rác-lê. Căn tính và vai trò của Đấng Pa-rác-lê được tóm kết qua tám đặc điểm: (1) Đấng Pa-rác-lê là Thần Khí sự thật và là Thánh Thần. (2) Đấng Pa-rác-lê là “Đấng hiện diện với”, “ở với”, “ở giữa”, “ở trong” các môn đệ “mãi mãi”. (3) Đấng Pa-rác-lê là Thầy dạy. Người sẽ dạy các môn đệ tất cả và làm cho các môn đệ nhớ lại tất cả những gì Đức Giê-su đã nói. (4) Đấng Pa-rác-lê là “Chứng Nhân”. Người làm chứng về Đức Giê-su trướctrong các môn đệ. (5) Đấng Pa-rác-lê là “Đấng mặc khải”, “Đấng làm cho biết”. Người sẽ chứng minh cho các môn đệ biết là thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử. (6) Đấng Pa-rác-lê là “Đấng dẫn đường”. Người sẽ dẫn các môn đệ đi trong sự thật toàn vẹn. (7) Đấng Pa-rác-lê giữ vai trò “ngôn sứ”. Người sẽ nói và loan báo cho các môn đệ những điều sẽ xảy đến; loan báo cho các môn đệ những gì là của Đức Giê-su. (8) Đấng Pa-rác-lê là “Đấng tôn vinh Đức Giê-su”.

Tám đặc điểm trên của “paraklêtos” không có trong văn chương Hy-lạp. Ðấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng không giữ vai trò luật sư (avocat), bảo vệ (défenseur), an ủi (consolateur) hay chuyển cầu (intercesseur). Không có từ ngữ nào bao hàm được tám nội dung trên, nên không thể dịch từ “paraklêtos” trong Tin Mừng. Tác giả Tin Mừng đã dùng từ Hy-lạp “paraklêtos” để xây dựng thần học riêng về “Đấng Pa-rác-lê” với những nghĩa mới. Gọi “Paraklêtos” trong Tin Mừng là “Đấng Pa-rác-lê” bảo toàn được sự phong phú, đa dạng và mới mẻ của Đấng này so với nghĩa gốc trong văn chương Hy-lạp. Hơn nữa, trong bộ Kinh Thánh (Cựu Ước và Tân Ước), “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” chỉ xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an (thuật ngữ gọi là “hapax johannique”). Nên đề tài này là một trong những đóng góp độc đáo của thần học Tin Mừng thứ tư.

Qua tám đặc điểm trên, Tin Mừng mời gọi độc giả nhận ra Đấng Pa-rác-lê đã và đang hiện diện và hoạt động nơi từng người tin. Đấng Pa-rác-lê là quà tặng lớn lao dành cho độc giả qua mọi thời đại. Nhờ đó người tin vượt qua mọi thử thách và có khả năng trung tín với Đức Giê-su đến cùng. Vẫn còn nhiều điều để nói về Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng. Chẳng hạn Đấng này tương quan với Đức Giê-su như thế nào? Đấng Pa-rác-lê cho độc giả biết điều gì về thế gian? v.v... Xem ĐẤNG PA-RÁC-LÊ – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư./.


7 nhận xét:

  1. Nặc danh07:16 1/1/12

    Cảm ơn tác giả trang Blog của nhiều bài viết có giá trị, nhiều chia sẻ thú vị, hấp dẫn, dễ thương.
    Mến chúc tác giả Năm 2012 luôn luôn hạnh phúc, luôn luôn trẻ khoẻ, luôn luôn vui vẻ và luôn luôn mới mẻ trong Đấng Pa-rác-lê...

    Trả lờiXóa
  2. Cám ơn cha vì những vất vả cha đã trải qua để có một bài thật hay về Đấng Pa-rác-lê cho chúng con xem ngay trong ngày đầu năm mới dương lịch này.

    Trả lờiXóa
  3. Nặc danh07:56 2/1/12

    cám ơn cha!
    Đầu năm được nghe và biết thêm về Đấng paraclê thật hay! năm nay là năm con rồng, người ta nói con rồng là biểu tượng của sự uy quyền và thịnh vượng, còn về nguồn gốc của biểu tượng này thì người ta nghiên cứu và nói rằng hình tượng con rồng là do cách điệu hình tượng con rắn dần dần theo thời gian...cứ suy luận theo điều này có thể nói những xa hoa uy quyền thì ai cũng mong nhưng luôn hàm chứa trong đó là "một lão rắn tinh ranh"..... có lẽ sự thịnh vượng sẽ trọn vẹn nếu có Đấng Paráclê "ở với" "ở cùng" và "ở trong" phải không cha nhỉ!
    Cám ơn cha nhiều!

    Trả lờiXóa
  4. Con chào cha
    Lâu lắm con mới có dịp ghé lại trang web của cha.
    Ngày đầu năm con đã vào "nhà" của cha và tự thưởng cho mình món ăn tinh thần bổ ích...
    Cám ơn cha nhiều lắm.
    Chúc cha luôn đầy tràn Thánh Thần, đầy tràn tình yêu, sức khỏe và sự hăng hay trong sứ vụ của mình.
    Xin cầu cho kẻ ươn lười này với cha nhé!

    Trả lờiXóa
  5. Xin cảm ơn các độc giả về những lời chúc ý nghĩa và những lời động viên khích lệ.
    Về câu “Có lẽ sự thịnh vượng sẽ trọn vẹn nếu có Đấng Paráclê ‘ở với’, ‘ở cùng’ và ‘ở trong’” của độc giả trên đây, có thể hiểu từ “thịnh vượng” theo nghĩa tâm linh, nghĩa là thịnh vượng trong “chất lượng” và “ý nghĩa” của cuộc sống, chứ không chỉ là thịnh vượng về của cải vật chất. Bởi vì giàu sang không đương nhiên là có hạnh phúc, có tình yêu, có cuộc sống an bình và ý nghĩa.

    Sự hiện diện của Đấng Pa-rác-lê làm cho cuộc sống được “thịnh vượng” theo nghĩa dồi dào, phong phú về lẽ sống, về ý chí và nghị lực. Người có Đấng Pa-rác-lê sẽ tự tin và dám hy vọng vào tương lai tốt đẹp hơn. Đặc biệt với sự hiện diện, dạy dỗ và hướng dẫn của Đấng Pa-rác-lê, con người có thể sống bình an và có niềm vui đích thực (bình an và niềm vui Đức Giê-su ban tặng). Nhờ Đấng Pa-rác-lê, con người sẽ có sức mạnh tâm linh để vượt qua mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống./.

    Trả lờiXóa
  6. Đấng Pa-rác-lê là quà tặng Chúa Giê-su để lại cho các các môn đệ của Người, tức là cho chính mình ngày hôm nay. Với tám sứ vụ của Đấng Pa-rác-lê trong tin mừng Gio-an mà cha đã phân tích, con cảm thấy mình không còn sợ hãi mà luôn vững tin “với sự hiện diện, giảng dạy và hướng dẫn của Đấng Pa-rác-lê” , Đấng luôn “ở với”, “ở cùng” và “ở trong” chúng ta.
    Đấng Pa-rác-lê chính là người an ủi và động viên chúng ta.
    Rất thích cách giải nghĩa việc chuyển âm tiếng Hy lạp “paraklêtos” thành Đấng “Pa-rác-lê” của cha thay vì dịch ra tiếng Việt.
    Như vậy Ngôi ba Thiên Chúa, Chúa Thánh Linh, hay Thánh Thần cũng là Đấng Pa-rác-lê mà Chúa Giê-su để lại cho các môn đệ phải không cha?

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Đúng như vậy, Đấng Pa-rác-lê (the Paraclete) là Thánh Thần (the Holy Spirit) và là Thần Khí sự thật (the Spirit of truth) là đấng Đức Giê-su ban cho các môn đệ, với điều kiện là yêu mến Đức Giê-su và thực hành giáo huấn của Người (cf. 14,15).

      Xóa