Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 24 tháng 02 năm 2020
Nội dung
Dẫn nhập
I. Tác giả giao tiếp với độc giả
1.
Giải thích
2.
Dịch nghĩa
II. Cách thức xây dựng trình thuật
1.
Xây dựng câu chuyện qua 3 hoặc 5 giai đoạn
2. Xây
dựng nhân vật
3.
Yếu tố thời gian
4.
Chèn vào chuyện đang kể (enchâssement)
a) Một số trình thuật chèn vào câu chuyện đang kể
b) Ý nghĩa lối hành văn chèn vào
Kết luận
Dẫn nhập
Bài viết trình
bày vắn tắt cách thức tác giả đối thoại với độc giả qua câu chuyện trong Tin
Mừng Mác-cô. Tác giả có thể nói “trực tiếp” với độc giả ngay trong câu chuyện
bằng những lời giải thích hay dịch nghĩa các từ khó. Tác giả có thể nói “gián
tiếp” với độc giả qua cách xây dựng trình thuật, xây dựng nhân vật và cách
trình bày yếu tố thời gian... Đặc biệt trong Tin Mừng Mác-cô xuất hiện kiểu
hành văn: chèn vào câu chuyện đang kể một câu chuyện khác. Những kỹ thuật hành
văn này của tác giả nhằm giúp độc giả hiểu ý nghĩa câu chuyện, nghĩa là điều tác
giả muốn nói với độc giả qua trình thuật. Tương quan “tác giả - độc giả” qua trung
gian “bản văn” được được trình bày qua 2 mục: (I) tác giả giao tiếp với độc giả;
(II) cách thức xây dựng câu chuyện.
I. Tác giả giao tiếp với độc giả
Khi kể chuyện, tác
giả giao tiếp với độc giả bằng nhiều cách. Chẳng hạn, kêu gọi độc giả phải chú
ý để hiểu khi tác giả viết: “Các người hãy nghe...” (Mc 4,3); “Ai có tai để nghe thì hãy nghe” (Mc 4,9), (xem 7,14; 13,14). Là người viết câu chuyện, tác giả biết mọi sự. Thật vậy, tác giả có
thể kể câu chuyện khi chỉ có một mình Đức Giê-su, như khi Người hấp hối
trong vườn Ghết-sê-ma-ni (Mc 14,32-42). Tác giả biết ý định của những kẻ chống
đối Đức Giê-su khi họ không lên tiếng. Tác giả đọc được ý định của những người
Pha-ri-sêu khi kể: “Họ chăm chú nhìn Người [Đức Giê-su], xem Người có chữa lành
anh ta ngày sa-bát không để tố cáo Người” (Mc 3,2). Như thế, để hiểu ý nghĩa bản
văn, độc giả cần tin cậy tác giả. Hai cách tác giả thường dùng để đối thoại trực
tiếp với độc giả là (1) giải thích (minh nhiên hay mặc nhiên) và (2) dịch nghĩa
các từ khó.
1. Giải thích
Để giúp độc giả hiểu
câu chuyện, tác giả có thể dùng năm cách sau:
(1) Trích dẫn
Kinh Thánh. Vd. Mc 1,1-3: “1 Khởi đầu tin mừng của Đức Giê-su Ki-tô [Con Thiên
Chúa], 2 như đã chép trong sách ngôn sứ I-sai-a: Này Ta sai sứ giả của Ta đi
trước mặt ngươi, người sẽ dọn con đường của ngươi. 3 Có tiếng người hô trong
hoang mạc: Hãy dọn con đường của Chúa, hãy làm cho thẳng những lối đi của
Người.”
(2) Giải thích
bằng mở ngoặc đơn. Vd. Mc 5,25-27: “25 Có một phụ nữ bị
băng huyết đã mười hai năm, 26 khổ sở nhiều vì chữa bệnh nơi nhiều thầy thuốc và đã tiêu tốn mọi thứ bà có, không được
ích lợi gì mà còn dẫn đến tệ hơn nữa. 27 Nghe về Đức Giê-su, bà đến từ phía sau
đám đông, chạm vào áo choàng của Người.” Câu 5,26 là phần giải thích thêm, vì mạch
văn vẫn liên tục nếu bỏ qua câu 26. Tuy nhiên tác giả muốn cung cấp thêm những
chi tiết về bệnh tình của bà ở 5,26 nhằm đề cao quyền năng của Đức Giê-su.
(3) Giải thích
trong câu chuyện “vì, bởi vì…”. Vd. Mc 1,21-22: “21 Các ngài đi vào Ca-phác-na-um, và tức
khắc, đi vào trong hội đường ngày sa-bát, Người giảng dạy. 22 Họ sửng sốt về
lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy họ như một Đấng có uy quyền, chứ
không như các kinh sư.” (xem 3,21; 5,8.42; 6,14; 6,20).
Từ “vì” ở 1,22b nhằm giải thích cho độc giả biết lý do thính giả sửng sốt trước
lời Đức Giê-su giảng dạy.
(4) Giải thích
các tập tục xa lạ với độc giả. Vd. Mc 7,1-2: “1
Những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Người, họ đến từ
Giê-ru-sa-lem. 2 Họ thấy một số môn đệ của Người ăn bánh khi tay ô uế, nghĩa là
chưa rửa.” (Xem 15,42). Cụm từ “nghĩa là chưa rửa” (7,2b) giải thích từ
“ô uế” (7,2a).
(5) Tác giả giải thích bằng chính bản văn (mise en abyme) như chuyện xức dầu thơm ở Bê-tha-ni-a. Đức Giê-su nói với một số người dự tiệc ở Mc 14,8-9: “8 Điều cô ấy có, cô ấy đã làm, cô ấy đã xức dầu thơm thân thể Tôi trước để chuẩn bị mai táng. 9 A-men, Tôi nói cho các ông: Tin mừng được loan báo ở đâu trong khắp thế gian, thì điều cô ấy vừa làm sẽ được kể lại để nhớ tới cô ấy.” Ngay lúc độc giả đọc câu chuyện thì đang thực hiện lời Đức Giê-su : nghe kể lại câu chuyện để nhớ tới chị (14,9c), nhớ tới hành động của chị (14,3) và nhất là ý nghĩa hành động ấy (14,6-8). (Xem D. Marguerat; Y. Bourquin, Pour lire les récits bibliques, p. 131-137).
2. Dịch nghĩa
Trong Tin Mừng
Mác-cô, tác giả thường dịch nghĩa từ A-ram (3,17; 5,41; 7,11; 7,34; 14,36;
15,34). Khi liệt kê danh sách 12 Tông đồ, tác giả viết về Gia-cô-bê và Gio-an ở
3,17: “Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và Gio-an em của Gia-cô-bê – Người đặt tên
cho họ là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi –.” Với cụm từ: “nghĩa là con
của thiên lôi”, tác giả dịch nghĩa từ “Bô-a-nê-ghê”, vì cho rằng một số độc giả không biết nghĩa từ này.
Khi Đức Giê-su
chữa lành người vừa điếc vừa ngọng ở 7,32-37, tác giả kể: “Ngước mắt lên trời,
Người [Đức Giê-su] thở dài và nói với anh ta: ‘Ép-pha-tha’, nghĩa là ‘hãy mở ra.’” Tác giả dịch từ “Ép-pha-tha” là “hãy mở ra” để giúp độc
giả hiểu lời Đức Giê-su nói. Những giải thích và dịch nghĩa một số từ xa lạ với ngôn ngữ của độc giả trên đây chỉ dành cho người đọc chứ không liên
quan gì đến nhân vật trong câu chuyện.
II.
Cách thức xây dựng trình thuật
Trong Kinh Thánh
nói chung và Tin Mừng Mác-cô nói riêng, các trình thuật vừa được xây dựng theo
những quy tắc chung, đồng thời có nét độc đáo riêng. Bốn đặc điểm đáng chú ý trong trình thuật Tin Mừng Mác-cô: (1) xây dựng câu chuyện qua 3 hoặc 5 giai đoạn; (2) cách xây dựng nhân vật; (3) yếu tố thời gian; (4) kỹ thuật hành văn chèn vào chuyện đang kể một chuyện khác.
1. Xây dựng câu chuyện qua 3 hoặc 5 giai
đoạn
Một trình thuật
thường có ba giai đoạn chính: (I) vấn đề cần giải quyết; (II) thực hiện; (III) kết quả. Ví dụ Mc 1,32-34 xây dựng qua
ba giai đoạn:
(I) Mc 1,32-33: “32 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, họ đem đến cho
Người mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám, 33 cả thành tụ họp lại trước cửa.” Câu này mô tả bối cảnh và nhu cầu chữa lành.
(II) Mc 1,34a: “Người chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ
bệnh tật, và trừ nhiều quỷ.” Đức
Giê-su thực hiện việc chữa lành và trừ quỷ.
(III) Mc 1,34b: “Người không cho quỷ nói, vì chúng biết
Người.” Phần kết cho biết uy quyền
của Đức Giê-su trên quỷ, đồng thời thoáng cho độc giả biết ai là người có thể nói
về Đức Giê-su.
Ở cấp độ chi tiết
hơn, một trình thuật đầy đủ được xây dựng qua năm giai đoạn: (I) tình trạng ban đầu (situation initiale); (II) vấn đề cần giải quyết
(nouement); (III) thực hiện (action
transformatrice); (IV) kết quả (dénouement); (V) tình trạng sau cùng (situation finale).
Ví dụ Mc 1,29-31
xây dựng với năm giai đoạn:
(I) Mc 1,29: “Ra khỏi hội đường, lập tức Người đến nhà Si-môn và
An-rê, cùng với Gia-cô-bê và Gio-an.”
(II) Mc 1,30: “Mẹ vợ của Si-môn nằm liệt vì cảm sốt, tức
khắc họ nói với Người về bà.”
(III) Mc 1,31a: “Đến gần, Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy;”
(IV) Mc 1,31b: “cơn sốt đã rời khỏi bà”
(V) Mc 1,31c: “và bà phục vụ họ.”
Trong từng đoạn văn cụ thể, trình thuật có thể đủ cả năm giai đoạn hay
được rút gọn thành bốn hay ba giai
đoạn.
2. Xây dựng nhân vật
Có nhiều loại
nhân vật trong câu chuyện: nhân vật chính (protagoniste); nhân
vật phụ (ficelle, figurant); nhân vật đơn giản (personnage plat),
(x. Mc 2,23-28); nhân vật phức tạp (personnage
rond),( x. Mc 3,1-6). Giữa các nhân vật có tương tác với nhau. Chẳng hạn, các nhân vật trong câu chuyện anh mù Ba-ti-mê ở Mc 10,46-52 (xem D. Marguerat; Y. Bourquin, Pour lire les récits bibliques, p. 81) tương
quan với nhau như sau:
3. Yếu tố thời gian
Yếu tố thời gian trong
trình thuật có thể là từ ngữ: (1) “ngày”, (2) “giờ”, (3) “ngay lập tức” hay diễn
tả qua cách thức kể chuyện: (4) tốc độ kể chuyện, (5) thứ tự các tình tiết và
(6) tầng số xuất hiện.
(1) “Ngày”.
Tin Mừng Mác-cô
thường dùng yếu tố thời gian là “ngày” để xây dựng
câu chuyện. Từ “ngày” (hêmera) xuất hiện 27 lần trong Mác-cô: 1,9.13; 2,1.20a.20b; 4,27.35; 5,5; 6,21;
8,1.2.31; 9,2.31; 10,34; 13,17.19.20a.20b.24.32; 14,1.12.25.49.58; 15,29.
(2) “Giờ”.
Trong trình thuật
khổ nạn, yếu tố thời gian là “giờ” (hôra). Từ này
xuất hiện 12 lần trong Mác-cô (6,35a.35b; 11,11; 13,11.32; 14,35.37.41; 15,25.33a.33b.34) và tập trung vào trình thuật Thương Khó ở ch. 14–15.
(3) “Ngay lập tức”.
Yếu tố thời gian diễn
tả qua trạng từ “ngay lập
tức” (euthus), xuất hiện 41 lần trong Mác-cô: 1,10.12.18.20.21.23.28.29.30.42.43;
2,8.12; 3,6; 4,5.15.16.17.29; 5,2.29.30.42a.42b; 6,25.27.45.50.54; 7,25; 8,10;
9,15.20.24; 10,52; 11,2.3; 14,43.45.72; 15,1. Kiểu nói “ngay lập tức” mời gọi độc giả lưu ý
đến sự khẩn cấp về thời gian liên
quan đến lựa chọn và quyết định của độc giả khi đọc Tin Mừng.
(4) Tốc độ kể chuyện.
Yếu tố thời gian bộc lộ
qua tốc độ kể chuyện nhanh hay chậm. Trình thuật có thể bỏ qua một số chi tiết trong câu chuyện (ellipse) làm nội dung tiến triển nhanh chóng hoặc triển khai thêm các chi tiết làm
câu chuyện kéo dài.
(5) Thứ tự các tình tiết.
Tác giả còn
quyết định kể chi tiết nào trước, chi tiết nào sau. Chẳng hạn, trình thuật Mc 10,17-31
nói về đề tài của cải, nhưng phải đợi đến câu 22 mới biết đó là người giàu có. Ba kiểu hành văn liên quan đến thứ tự các tình tiết: (a) kể theo thứ tự thời gian (ordre chronologique); (b) kể lùi về quá khứ (anachronie analepse) qua
công thức “ứng nghiệm lời đã viết”;
(c) kể hướng về tương lai (anachronie prolepse), chẳng hạn Đức Giê-su báo
trước Thương Khó – Phục Sinh là điều sẽ xảy ra trong tương lai.
Tình tiết trong loại: “kể lùi về quá khứ” (loại b) và “kể hướng về tương lai” (loại c), có thể ở trong (interne) hay ở ngoài (externe) bản văn. Chẳng hạn, trình thuật loan báo Phục Sinh (Mc 16,1-7) là lối “kể
hướng về tương lai” hỗn hợp với “ngôi mộ trống” là trong bản văn (interne)
vì đã nói đến trong Tin Mừng Mác-cô, còn ý “đến Ga-li-lê trước các ông” là ngoài
bản văn (externe) vì cuộc gặp gỡ này không được kể lại trong Tin Mừng
Mác-cô.
(6) Tần số xuất hiện (la fréquence).
Sự kiện được nói đến một
lần hay nhiều lần liên quan đến yếu tố thời gian. Các tình tiết có thể rơi vào một trong ba trường hợp sau:
a) Xảy ra x lần, kể x lần (récit singulatif). Chẳng
hạn, báo trước Thương khó – Phục Sinh 3 lần được kể lại 3 lần (Mc 8,31; 9,31; 10,33-34).
b) Xảy ra 1 lần, kể x lần (récit répétitif). Ví dụ,
chuyện Phao-lô ngã ngựa 1 lần, được kể lại 3 lần
trong sách Công Vụ các Tông Đồ với nhiều chi tiết khác nhau (Cv
9,1-25; 22,1-21; 26,1-23).
c) Xảy ra x lần, kể 1 lần (récit itératif). Đây là
những đoạn văn tóm kết (sommaire) hay chuyển tiếp giữa
hai đoạn văn (transititon entre deux scènes). Chẳng hạn sau phần giảng dạy bằng dụ ngôn (Mc
4,1-32), tác giả tóm kết ở 4,33-34: “33 Với nhiều dụ ngôn
tương tự, Người [Đức Giê-su] nói Lời cho họ theo như họ có thể nghe. 34 Người
không nói với họ nếu không dùng dụ ngôn. Nhưng khi ở riêng, Người giải thích
mọi điều cho các môn đệ của Người.” Nghĩa là Đức Giê-su còn giảng dạy bằng nhiều
dụ ngôn khác không được kể trong Tin Mừng.
4. Chèn vào chuyện đang kể (enchâssement)
Tin Mừng Mác-cô
hay dùng kiểu hành văn chèn vào câu chuyện đang kể một câu chuyện khác. Vì thế cần nối kết ý nghĩa hai câu chuyện với nhau để hiểu. Ý nghĩa câu chuyện chèn vào soi sáng ý nghĩa câu chuyện đang kể, ngược lại câu chuyện đang kể giúp hiểu chuyện được chèn vào. Phần sau trình bày (a) một số trình thuật chèn vào câu
chuyện trong Tin Mừng Mác-cô và (b) ý nghĩa của lối hành văn này.
a) Một số trình thuật chèn vào câu chuyện đang kể
(1) Mc 3,20-35. Câu chuyện thân nhân Đức
Giê-su tìm bắt Người vì nghĩ rằng Người mất trí ở 3,20-21, được tiếp tục ở 3,31-35, nói về ai là mẹ và anh em của Đức Giê-su. Đoạn văn chèn vào hai đoạn văn trên là 3,22-30 gồm 2 trình thuật: “Xa-tan trừ xa tan” (3,22-27) và “Nói phạm thượng đến Thánh Thần” (3,28-30).
(2) Mc 4,1-34. Phần Đức Giê-su giảng dạy dân chúng bằng dụ ngôn trong Mc
4,1-34 mở đầu bằng “dụ ngôn gieo giống” (4,1-9) và kết thúc bằng “dụ ngôn đất
tự sinh hoa trái” (4,26-29) và “dụ ngôn hạt cải” (4,30-34). Phần chèn vào là
đoạn văn 4,10-25, thuật lại những gì Đức Giê-su nói riêng
với các môn đệ.
(3) Mc 5,21-43. Trình thuật chữa lành con
gái ông Gia-ia được kể trong hai đoạn văn: 5,21-24; 5,35-43. Phần chèn vào là
trình thuật người đàn bà bị băng huyết (5,25-34).
(4) Mc 6,7-30. Trình thuật Đức Giê-su sai các
Tông Đồ đi rao giảng (6,7-13) tiếp
nối với trình thuật các Tông
Đồ trở về tụ họp quanh Đức Giê-su và kể lại cho Người tất cả mọi việc họ đã làm
và đã dạy (6,30). Phần chèn vào là câu chuyện về Hê-rô-đê (6,14-16) và Gio-an
Tẩy Giả bị chém đầu (6,17-29).
(5) Mc 11,12-25. Trong đoạn văn
này, trình thuật cây vả (11,12-14; 11,20-26) được kể song song với trình thuật về Đền Thờ (11,1-11; 11,15-19).
(6) Mc 14,1-11. Việc những kẻ chống đối âm mưu hại Đức Giê-su
(14,1-2) tiếp nối trình thuật Giu-đa nộp Đức Giê-su (14,10-11). Phần chèn vào
là trình thuật xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (14,3-9).
b) Ý nghĩa lối hành văn chèn vào
(1) Về ý nghĩa, hai câu chuyện được kể lồng vào nhau trong đoạn văn Mc 5,21-43 có cấu trúc A, B, A’:
A. 5,21-24: Đức
Giê-su đi cứu con gái ông Gia-ia
B. 5,25-34: Chữa người đàn bà bị băng huyết
A’. 5,35-43: Tiếp
tục câu chuyện cứu con gái ông Gia-ia
Hai trình thuật
lồng vào nhau trên đây có những điểm giống nhau thú vị. Người đàn
bà bị băng huyết đã 12 năm, thì con gái ông Gia-ia 12 tuổi. Cả hai đều là phái
nữ; cả hai đều ở trong tình trạng hiểm nghèo và được bản văn nhấn mạnh (Mc 5,23
cho biết con gái ông Gia-ia gần chết; Mc 5,26 cho biết bệnh tình tệ hại của
người đàn bà bị băng huyết).
Cả hai câu chuyện
đều có yếu tố “công khai” (public) và “riêng tư” (privé)
nhưng ngược nhau. Người đàn bà băng huyết đi từ chuyện “riêng tư” đến thú nhận
“công khai” việc mình đã làm (5,30-33). Ngược lại, tại nhà ông Gia-ia, Đức
Giê-su chuyển từ “công khai” giữa mọi người sang “riêng tư”, vì Người không cho
phép ai đi theo Người, ngoại trừ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an (5,37).
Qua những điểm giống nhau, hai câu chuyện soi sáng cho nhau ra sao? Trong
mạch văn, khi Đức Giê-su đang trên đường đến nhà ông Gia-ia thì người nhà đến
nói với ông: “Con gái của ông chết rồi, làm phiền Thầy nữa làm gì?” (5,35). Đức
Giê-su thoáng nghe lời đó thì nói với ông trưởng hội đường:
“Ông đừng sợ, chỉ cần ông tin” (5,36). Điều gì làm cho lời này đáng tin cậy? Câu chuyện người đàn bà bị băng huyết vừa được chữa lành cho
thấy lời Đức Giê-su nói là lời đáng tin. Người mời gọi ông
Gai-ia “tin” (5,36) vì ngay trước đó
Người đã nói với người đàn
bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (5,34). Lòng tin của người phụ
nữ đã cứu chữa bà ấy. Cũng một nguyên tắc ấy, Đức Giê-su nói với ông Gia-ia là
“chỉ cần tin” (5,36) thì con gái ông sẽ được cứu.
(2) Mc 11,12-25. Trình thuật cây vả (11,12-14; 11,20-26) được chèn
vào trình thuật về Đền Thờ (11,1-11; 11,15-19) qua cấu trúc song song A, B, A’, B’. Trong đó
A // A’ liên quan đến Đền Thờ, B // B’ liên quan đến cây vả:
A. 11,1-11: Đức Giê-su vào thành
Giê-ru-sa-lem
B. 11,12-14: Cây vả không sinh trái
A’.
11,15-19: Đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ
B’. 11,20-26: Cây vả khô héo. Lòng
tin và cầu nguyện.
Cấu trúc trên cho thấy chuyện cây vả soi sáng
cho trình thuật đuổi kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ. Nói cách khác, trình trạng Đền
Thờ Giê-ru-sa-lem được ví như cây vả không sinh trái.
Tóm lại, kiểu hành văn chèn vào liên kết ý nghĩa hai câu chuyện với nhau. Độc giả cần tìm ra những điểm bổ túc và soi sáng lẫn nhau trong hai trình thuật để hiểu giáo huấn của Đức Giê-su cũng như sứ vụ và căn tính của Người.
Kết
luận
Hiểu tác giả đang
đối thoại với độc giả qua một số kỹ thuật hành văn như: giải thích minh nhiên hoặc mặc nhiên, dịch nghĩa các từ khó hiểu, cách
thức xây dựng câu chuyện và cách thức kể chuyện, giúp độc giả hiểu sâu hơn ý nghĩa bản văn. Nhờ đó bản văn Tin Mừng trở thành lương thực nuôi dưỡng độc giả vì tìm thấy trong đó những điều thú vị
và có ý nghĩa./.
Cám ơn cha Thông về bài viết này. Dù vắn tắt, nhưng cha đã giúp TH có cái nhìn tổng quát và đủ để hiểu về Mác-cô qua bản văn Tin mừng của ông.
Trả lờiXóaMến chúc cha một năm mới an lành và theem thánh đức.
Bài viết chuyên môn và công phu
Trả lờiXóaXin Chúa chúc lành cho cha và công việc của cha.