03/03/2020

Mc 8,14-21. Quên bánh, một bánh, nhiều bánh, vô số bánh



Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 03 tháng 03 năm 2020.


Nội dung

Dẫn nhập
I. Bản văn và bối cảnh Mc 8,14-21
    1. Bản văn
    2. Bối cảnh văn chương
II. Phân tích đề tài “bánh”
    1. “Vô số bánh”, hai phép lạ bánh hoá nhiều (8,19-20)
    2. Quên bánh”, “chỉ có một cái bánh” (8,14)
    3. “Một bánh”, nhiều bánh” (8,16)
Kết luận



Dẫn nhập

Về hình thức, trình thuật Mc 8,14-21 xem ra không có gì trầm trọng, tại sao Đức Giê-su lại quở trách các môn đệ nặng lời như ở 8,17-21? Trong Tin Mừng Mác-cô, đây là đoạn văn các môn đệ bị khiển trách dồn dập với một loạt từ ngữ kèm theo từ phủ định: “không”. Độc giả ngạc nhiên khi ở ch. 8 (ở giữa sách Tin Mừng Mác-cô có 16 chương) mà kết quả huấn luyện của Đức Giê-su, cũng như sự tiếp thu của các môn đệ chưa có gì khả quan. Theo Đức Giê-su, các môn đệ “chưa nhận biết”, “không hiểu” (8,17a), “chưa hiểu” (8,21); lòng vẫn còn “chai đá” (8,17b); “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” (8,18). Những lời quở trách trở nên nặng hơn khi Đức Giê-su nói dưới hình thức câu hỏi; và trong đoạn văn, không có một lời giải thích nào từ phía các môn đệ. Lối hành văn sinh động qua những lời quở trách nặng nề có nhiều ý nghĩa thú vị cho độc giả. Xem bài viết: “Anh em ngu muội như thế sao?” (Mc 7,18) lời này nói gì với độc giả?

Ngạc nhiên về những gì xảy ra trong đoạn văn Mc 8,14-21 liên quan đến đề tài “bánh”: “quên bánh” (8,14a), “một bánh” (8,14b), “nhiều bánh” (8,16) và “vô số bánh” (8,19-20: nhắc lại hai phép lạ bánh hoá nhiều) cùng với một số chi tiết khó hiểu và lạ thường như: kiểu nói “chỉ có một cái bánh với các ông trên thuyền” (8,14) muốn nói điều gì? Đâu là lý do khiến các môn đệ bàn tán về “không có nhiều bánh”? Bài viết tìm hiểu đề tài “bánh” qua hai mục: (I) bản văn và bối cảnh Mc 8,14-21; (II) phân tích đề tài “bánh”.

I. Bản văn và bối cảnh Mc 8,14-21

Phần này trình bày (1) bản văn Mc 8,14-21 và (2) bối cảnh văn chương của đoạn văn này trong Tin Mừng Mác-cô.

    1. Bản văn

Người thuật chuyện kể ở Mc 8,14-21: “14 Và các ông [các môn đệ] quên đem bánh theo; chỉ có một cái bánh với các ông trên thuyền. 15 Người [Đức Giê-su] căn dặn các ông rằng: ‘Anh em hãy chú ý, hãy coi chừng men của những người Pha-ri-sêu và men của Hê-rô-đê.’ 16 Các ông bàn tán với nhau là các ông không có nhiều bánh. 17 Biết thế, Người nói với họ: ‘Sao anh em lại bàn tán là anh em không có nhiều bánh? Anh em chưa nhận biết cũng chẳng hiểu ư? Sao lòng anh em vẫn còn chai đá thế? 18 Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không nhớ sao, 19 khi Thầy bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mảnh vụn?’ Các ông nói với Người: ‘Mười hai.’ 20 ‘Và với bảy cái bánh cho bốn ngàn người, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mảnh vụn?’ Các ông nói [với Người]: ‘Bảy.’ 21 Người nói với các ông: ‘Anh em chưa hiểu ư?’” (xem Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt).

    2. Bối cảnh văn chương

Ch. 8 Tin Mừng Mác-cô thuộc phần hoạt động của Đức Giê-su ở Ga-li-lê. Mở đầu ch. 8 là trình thuật phép lạ bánh hoá nhiều lần thứ 2 (8,1-9) được nhắc đến trong đoạn văn 8,14-21. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Đức Giê-su và các môn đệ xuống thuyền đi đến vùng Đan-ma-nu-tha (8,10). Địa danh “Đan-ma-nu-tha” không rõ ở đâu, nhưng chắc chắn là bờ phía tây Biển Hồ. Trình thuật bánh hoá nhiều lần thứ hai Mt 15,32-39 kết thúc: “Đức Giê-su xuống thuyền sang vùng Ma-ga-đan” (Mt 15,39). Có thể “Đan-ma-nu-tha” và “Ma-ga-đan” là những hình thức khác nhau tiếng A-ram về địa danh Mác-đa-la hay bị biến dạng của từ “Mác-đa-la” là địa danh ở phía Bắc thành Ti-bê-ri-a.

Trình thuật những người Pha-ri-sêu xin dấu lạ từ trời (8,10-13) tiếp nối phép lạ bánh hoá nhiều (8,1-9). Người thuật chuyện kể ở 8,11: “Những người Pha-ri-sêu đến và bắt đầu tranh luận với Người [Đức Giê-su], họ xin Người một dấu lạ từ trời để thử Người.” Đoạn văn này kết thúc ở 8,13: “Rời khỏi họ, Người lại xuống thuyền đi qua bờ bên kia” (8,13), tiếp theo là đoạn văn Mc 8,14-21 xảy ra trên biển hồ Ga-li-lê. Đức Giê-su và các môn đệ lên thuyền ở vùng Đan-ma-nu-tha (8,10) và họ “đi qua bờ bên kia” (8,13). Nơi đến của chuyến đi là Bết-xai-đa, địa danh này được nói đến ngay đầu trình thuật tiếp theo: “Họ đến Bết-xai-đa, người ta mang đến cho Người [Đức Giê-su] một người mù và nài xin Người để Người chạm vào anh ta…” (8,22). Trình thuật tiếp theo (8,22-26) kể lại việc Đức Giê-su chữa lành người mù. Tóm lại, trao đổi về đề tài “bánh” (Mc 8,14-21) xảy ra trên thuyền, trong chuyến đi từ Đan-ma-nu-tha đến Bết-xai-đa, vào giai đoạn Đức Giê-su thi hành sứ vụ ở Ga-li-lê.

II. Phân tích đề tài “bánh”

Đề tài “bánh” xuyên suốt đoạn văn Mc 8,14-21. Trình thuật mở đầu bằng việc các môn đệ “quên đem bánh theo” và “chỉ có một cái bánh với các ông trên thuyền” (8,14). Tiếp đến là lời bàn tán: “không có nhiều bánh” (8,16). Đức Giê-su nhắc lại tranh luận này trong câu tiếp theo (8,17) và quở trách các môn đệ nặng lời. Để minh hoạ lòng chai dạ đá của các môn đệ, Đức Giê-su nhắc lại hai phép lạ bánh hoá nhiều Người đã thực hiện trước đó (Mc 6,30-44; 8,1-9). Đề tài bánh được phân tích qua ba điểm: (1) “vô số bánh”, hai phép lạ bánh hoá nhiều (8,19-20); (2) quên bánh”, “chỉ có một cái bánh” (8,14); (3) Một bánh”, nhiều bánh” (8,16)

    1. “Vô số bánh”, hai phép lạ bánh hoá nhiều (8,19-20)

Lời Đức Giê-su chất vấn các môn đệ về hai phép lạ bánh hoá nhiều ở 8,19-20 giúp độc giả nhớ lại những gì Đức Giê-su đã làm. Người thực hiện phép lạ bánh hoá nhiều lần thứ nhất cho năm ngàn người ăn (Mc 6,30-44). Phép lạ này kết thúc ở 6,42-44: “42 Tất cả đã ăn và đã được no nê. 43 Họ thu lại những mảnh vụn được mười hai giỏ đầy cùng với cá còn dư. 44 Những kẻ ăn [bánh] là năm ngàn người đàn ông.” Ở ch. 8, Đức Giê-su nhắc lại phép lạ này với các môn đệ bằng câu hỏi ở 8,18b-19a: “18b Anh em không nhớ sao, 19a khi Thầy bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mảnh vụn?” Các môn đệ đã trả lời đúng: “Mười hai” (8,19b). Với kiểu hành văn tương tự, Đức Giê-su nhắc lại phép lạ bánh hoá nhiều lần thứ hai ở đầu ch. 8 (Mc 8,1-9). Người hỏi các môn đệ ở 8,20a: “Với bảy cái bánh cho bốn ngàn người, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mảnh vụn?” Lần này các môn đệ cũng trả lời chính xác: “Bảy” (8,20b). Con số này được nói đến trong phép lạ bánh hoá nhiều lần thứ hai ở 8,8-9: “8 Họ đã ăn và đã được no nê, và họ thu lại những mảnh vụn còn thừa được bảy thúng. 9 Có khoảng bốn ngàn người. Rồi Người [Đức Giê-su] giải tán họ.”

Như thế, có liên hệ giữa “một cái bánh trong thuyền” (8,14) với lời bàn tán “không có nhiều bánh”, cùng với “vô số bánh” trong hai phép lạ bánh hoá nhiều. Đức Giê-su nhắc lại hai phép lạ bánh hoá nhiều để soi sáng cho lời bàn tán “không có nhiều bánh”. Mạch văn cho phép hiểu rằng, tuy các môn đệ nhớ rõ chi tiết hai phép lạ khi trả lời đúng hai câu Đức Giê-su hỏi (8,19-20), nhưng các ông vẫn chưa hiểu ý nghĩa phép lạ nên mới bàn tán về việc “không có nhiều bánh” trên thuyền. Các ông chưa nhận ra quyền năng của Đức Giê-su. Cũng vậy độc giả có thể nhớ rõ mọi chi tiết câu chuyện nhưng chưa hẳn là đã hiểu được ý nghĩa của chúng. Lời chất vấn của Đức Giê-su làm rõ điều này: nếu chỉ với “năm cái bánh và hai con cá” (6,38) có thể nuôi 5000 người ăn no nê, thì việc tranh luận “không có nhiều bánh” đang khi Đức Giê-su hiện diện với các môn đệ trên thuyền là bằng chứng hiển nhiên cho thấy các ông “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” (8,18).

    2. Quên bánh”, “chỉ có một cái bánh” (8,14)

Trước khi tìm hiểu tương phản giữa “một bánh” và “nhiều bánh”, cần tìm hiểu ý nghĩa kiểu nói lạ lùng ở 8,14: “Và các ông [các môn đệ] quên đem bánh theo; chỉ có một cái bánh với các ông trên thuyền.” Theo sự thường thì nếu “quên mang bánh” thì “không có bánh” hay “chỉ có một cái bánh”, không cần thiết phải thêm vào hai cụm từ: “với các ông” (meth’ heautôn) và “trên thuyền” (en tôi ploiôi). Tuy nhiên câu văn với những chi tiết không cần thiết trên lại trở thành có ý nghĩa và câu văn trở nên nhẹ nhàng hơn nếu thay từ “bánh” bằng danh xưng “Đức Giê-su”: “Chỉ có một mình Đức Giê-su với các ông trên thuyền”. Kiểu nói “chỉ có một mình Đức Giê-su với các ông” xuất hiện trong trình thuật Đức Giê-su biến hình trên núi (Mc 9,2-8). Sau trình thuật biến hình, Người thuật cho biết ở 9,8: “Chợt nhìn quanh, các ông [Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an] không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su với họ.”

Như thế câu 8,14b: “Chỉ có một cái bánh với các ông trên thuyền” gợi đến sự hiện diện của Đức Giê-su với các môn đệ trên thuyền theo nghĩa “chỉ có một mình Đức Giê-su với các ông trên thuyền.” Ý tưởng này dẫn đến sự đồng hoá giữa “bánh” và “Đức Giê-su”. Điều này là minh nhiên trong bữa tiệc ly. Người thuật chuyện kể ở 14,22: “Đang khi họ ăn, Người [Đức Giê-su] cầm lấy bánh, chúc tụng, bẻ ra, trao cho các ông và nói: ‘Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy’.” Vậy Đức Giê-su là tấm bánh bẻ ra cho các môn đệ. Đối với độc giả, hình ảnh “bánh ở với các môn đệ...” (8,14) gợi đến bánh Thánh Thể. Người là tấm bánh duy nhất có khả năng nuôi dưỡng người tin qua mọi thời đại. Theo nghĩa này, chỉ cần duy nhất “một chiếc bánh” trên thuyền là đủ. Hình ảnh “thuyền” biểu tượng cho cộng đoàn Hội Thánh trong hành trình trần thế. Một khi đã có Đức Giê-su hiện diện thì không có gì phải lo lắng về của ăn. Từ ý nghĩa trên, trình thuật Mc 8,14-21 cho thấy các môn đệ chưa tin đủ và chưa nhận ra quyền năng của Đức Giê-su. Đối với các ông, sự hiện diện của Đức Giê-su là chưa đủ, nên mới có lời bàn tán. Họ lo lắng “không có nhiều bánh”, như thể Đức Giê-su không hiện diện với họ, hay đúng hơn, Đức Giê-su ở trên thuyền với các môn đệ nhưng sự hiện diện này chẳng giải quyết được gì cho việc quên bánh.

    3. “Một bánh”, nhiều bánh” (8,16)

Đề tài “chưa biết”, “chưa hiểu”, “chưa tin” của các môn đệ trong đoạn văn Mc 8,14-21 còn thể hiện qua chi tiết tương phản giữa “một bánh” và “nhiều bánh”. Từ “nhiều” in nghiêng vì trong bản văn Hy-lạp không có từ “polus” (nhiều), nhưng được thêm vào để diễn tả danh từ “bánh” (artos) ở đối cách, số nhiều (artous). Dịch sát câu 8,16b: “Các ông không có những chiếc bánh (artous ouk ekhousin)”. Để xuôi tiếng Việt, tạm dịch: “Các ông không có nhiều bánh”. Chi tiết này quan trọng vì làm rõ tương phản “một bánh” và “nhiều bánh”. Vấn đề các môn đệ bàn tán không phải là “không có bánh”, nhưng là “không có nhiều bánh”. Đối với các ông, chỉ có một chiếc bánh trên thuyền là không đủ, nên các ông lo lắng, bàn tán là “không có nhiều bánh”. Cách suy nghĩ này bị Đức Giê-su quở trách. Độc giả nhận ra rằng, nếu tin vào quyền năng của Đức Giê-su thì “một cái bánh” là đủ, nghĩa là sự hiện diện của Đức Giê-su là đủ, vì hai phép lạ bánh hoá nhiều đã bày tỏ cách hiển nhiên quyền năng của Người. Vì vậy, nếu như các môn đệ thực sự tin vào Đức Giê-su và nhận ra quyền năng của Người thì sẽ không bàn tán về việc “không có nhiều bánh”.

Kết luận

Đề tài “bánh” ở Mc 8,14-21 được xây dựng qua cách dùng từ “bánh” (artos) ở số ít (một cái bánh) và số nhiều (nhiều bánh). Sau đó, Đức Giê-su soi sáng lời bàn tán về bánh bằng cách nhắc lại hai phép lạ bánh hoá nhiều (Mc 6,30-44; 8,1-9), nghĩa là “không có nhiều bánh” đặt song song với “đã có vô số bánh”. Khi bàn tán với nhau về chuyện: “không có nhiều bánh” là các môn đệ chưa nhận ra quyền năng của Đức Giê-su bày tỏ qua hai phép lạ bánh hoá nhiều. Liệu độc giả có tránh khỏi những lời quở trách Đức Giê-su dành cho các môn đệ không? Hoàn cảnh các môn đệ cũng là hoàn cảnh của cộng đoàn Mác-cô vào cuối thế kỷ I và của độc giả qua mọi thời đại. Trình thuật Mc 8,14-21 mời gọi độc giả nhận ra quyền năng của Đức Giê-su và tín thác vào Người. Các môn đệ trong đoạn văn 8,14-21 bị quở trách nặng nề là những chi tiết quý giá giúp độc giả hiểu đúng về Đức Giê-su, hiểu giáo huấn của Người và nhận biết Người là ai.

Đặc biệt kiểu hành văn ở 8,14b cho phép nối kết “bánh trên thuyền” với sự hiện diện của Đức Giê-su. Người là bánh hằng sống có khả năng muôi dưỡng và ban sự sống cho người tin. Sau dấu lạ bánh và cá hoá nhiều trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su tuyên bố trong diễn từ bánh sự sống ở Ga 6,35: “Chính Tôi là bánh sự sống, người đến với Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ.” Phải chăng độc giả thực sự nhận biết Đức Giê-su nên không thiếu thốn gì nữa khi có Người ở với mình?

Bài viết chưa phân tích đề tài “men của những người Pha-ri-sêu và men của Hê-rô-đê” (8,15). Trong trình thuật, dường như đề tài “men” (zumê) cắt ngang và chèn vào đề tài “bánh” (artos), tuy nhiên đề tài này có thể có tương quan với sự không hiểu của các môn đệ. Những người Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê đã không thực sự biết Đức Giê-su là ai. Phải chăng những lời Đức Giê-su quở trách các môn đệ cũng dành cho người Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê? Hy vọng sẽ có dịp phân tích đề tài này./.



4 nhận xét:

  1. Trinh Đỗ Phương21:41 12/2/12

    bóc tem bài mới của cha... con đọc đầu tiên rồi nhá!!! được tiếp cận tri thức của cha từ sáng sớm, tỉnh táo hẳn ra, nhưng tốn năng lượng hẳn đi vì đọc bài căng thẳng quá, hihi...mà đọc toàn thấy bánh hông à, sáng ra chưa ăn sáng nên sau khi đọc bài của cha mệt muốn xỉu, hehe...

    Trả lờiXóa
  2. vinhson18@....22:57 13/2/12

    con đã đọc bài này từ hôm Chúa nhật rồi! hôm nay đọc tin mừng cho thứ ba thấy thấm hơn vì đã được chuẩn bị!
    con thích nhất là câu: "xem ra sự hiện diện của Đức Giê-su là không đủ, nên mới có lời bàn tán. Họ lo lắng “không có nhiều bánh”, như thể Đức Giê-su không hiện diện với họ".. trong bài chia sẻ của cha!
    đọc đoạn này con cảm thấy như chợt nhận ra một điều gì đó quý giá mà mình thường bỏ quên:"sự hiện diện của Đức Giêsu" có niềm tin vào Ngài rồi thì sự hiện diện đó sẽ là một sự hiện diện ảnh hưởng tới thực tại cuộc sống...vẫn phải lo liệu nhưng sẽ không phải là mối bận tâm thái quá!vì biết Người là ai rồi...
    ....à con chợt nghĩ đến ngày mai là ngày valentine...con nhớ câu chuyện của ông Apbraham và bà sara khi bà than trách vì bị người tớ gái nhạo cười bà không sinh con thì ông Abraham đã nói "tôi không đủ cho bà sao"...
    ngẫm nghĩ có thể Chúa cũng hỏi con những khi con than phiền vì lo toan nhiều thứ vụn vặt: "ta không đủ cho con sao" có yêu thì mới lấy người mình yêu làm đủ cha nhỉ...một Tấm Bánh là đủ rồi..cho ai biết Tấm Bánh ấy ý nghĩa thể nào!
    cám ơn bài chia sẻ của cha!
    ngày mai 14.2 con chúc cha nhận được món quà là chính Đấng cha yêu! mới và đặc biệt hơn ngày thường...

    Trả lờiXóa
  3. Nặc danh21:13 15/4/21

    con nghĩ đoạn Tm Mc 8,17-21 Đức Giê-su quở trách các môn đệ bằng những lời nặng là nhằm mục đích khai mở "trí" cho các ông. Người gợi lại những dấu lạ đã làm bằng những câu hỏi ngắn và các ông cũng đáp lại bằng những con số. sau đó đến đoạn kế tiếp tức là khi vào Bết-sai-đa Đức Giê-su chữa cho anh mù được sáng mắt. ở đây Đức Giê-su một lần nữa tỏ uy quyền là Ngài có quyền trên nhs sáng và Ngài có thể ban ánh sáng cho những người tối tăm. điều quan trọng mà connghix ở đây là Đức Giê-su mở mắt cho các môn đệ thấy rõ, cho các ông tinh tường cả về trí và về con mắt. và việc Đức Giê-su khai mở cho các môn đệ cũng là khai mở cho độc giả.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Đúng vậy, hai đoạn văn Mc 8,17-21 và 8,22-26 khai mở cho các môn đệ và cho độc giả “cả về trí và về con mắt”. Tuy nhiên việc khai mở này chỉ là một phần nhỏ của việc mở trí, mở lòng con người trong Tin Mừng Mc. Để hiểu đặc điểm riêng của việc khai mở trong hai đoạn văn trên (không có nơi nào khác trong Tin Mừng) cần để ý đến cách thức khai mở, khai mở điều gì? Tại sao quở trách ở ch. 8? Tại sao các môn đệ không được nói đến trong đoạn văn chữa anh mù? Tại sao việc chữa lành mắt được thực hiện hai giai đoạn? v.v... các chi tiết trong câu chuyện có ý nghĩa gì trong bản văn và trong thần học Tin Mừng Mc?

      Mỗi đoạn văn mở lòng mở trí cho độc giả về một số đề tài, theo cách thức riêng của Mc. Tất cả các đoạn văn làm nên thần học Tin Mừng Mc. Vậy độc giả được mời gọi đọc kỹ bản văn để tìm ra sứ điệp riêng của từng đoạn văn như là một mắt xích trong thần học của sách Tin Mừng Mc. Tin Mừng này có những nét độc đáo riêng về văn chương và thần học so với các sách Tin Mừng khác.

      Xóa