14/03/2020

Ba môn đệ vô danh và môn đệ Đức Giê-su yêu mến (TM Gio-an)



Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 14 tháng 03 năm 2020.


Nội dung

Dẫn nhập
I. Ba môn đệ vô danh
    1. Một trong hai môn đệ ở 1,35-40
    2. “Người môn đệ khác” 18,15
    3. Môn đệ vô danh ở 21,2
II. Môn đệ Đức Giê-su yêu mến
    1. Trong bữa tiệc ly (13,21-27)
    2. Hiện diện dưới chân thập giá (19,25-27)
    3. Sáng sớm ngày ngày thứ nhất trong tuần (20,1-3)
    4. Đánh cá ở biển hồ Ti-bê-ri-a (21,4-7)
    5. Số phận môn đệ Đức Giê-su yêu mến (21,18-24)
III. Ý nghĩa tên gọi “môn đệ Đức Giê-su yêu mến”
Kết luận



Dẫn nhập

“Vô danh” (anonymous) ở đây theo nghĩa “không biết tên riêng”. Theo bản văn Tin Mừng Gio-an hiện nay, độc giả không biết tên riêng của một số môn đệ Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Gio-an, “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” là một môn đệ vô danh, bản văn còn cho biết ba môn đệ vô danh khác nữa. Bốn môn đệ vô danh trong Tin Mừng Gio-an được trình bày qua ba mục: (I) ba môn đệ vô danh; (II) môn đệ Đức Giê-su yêu mến; (III) ý nghĩa tên gọi “môn đệ Đức Giê-su yêu mến”. Các trích lấy trong: Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư, Hy Lạp – Việt.

I. Ba môn đệ vô danh

Tin Mừng Gio-an nói vắn tắt về ba môn đệ vô danh: (1) một trong hai môn đệ ở 1,40; (2) một môn đệ khác ở 18,15; (3) một trong hai môn đệ ở 21,2.

    1. Một trong hai môn đệ ở 1,35-40

Người thuật chuyện kể về hai môn đệ Gio-an Tẩy Giả đi theo Đức Giê-su, đây là Theo Tin Mừng Gio-an, hai môn đệ đầu tiên của Đức Giê-su là môn đệ của Gio-an Tẩy Giả, một người là An-rê, còn tên môn đệ kia không được nói đến. Trình thuật Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Đức Giê-su với hai môn đệ của ông được kể lại ở Ga 1,35-41: “35 Hôm sau, Gio-an lại đứng với hai người trong các môn đệ của ông ấy. 36 Và chăm chú nhìn Đức Giê-su đang đi qua, ông ấy nói: ‘Đây là Chiên của Thiên Chúa.’ 37 Hai môn đệ của ông ấy nghe nói thế, họ đi theo Đức Giê-su. 38 Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo, Người nói với họ: ‘Các anh tìm gì?’ Họ nói với Người: ‘Thưa Ráp-bi – nghĩa là thưa Thầy –, Thầy ở lại ở đâu?’ 39 Người nói với họ: ‘Hãy đến và hãy xem.’ Vậy họ đã đến và đã xem nơi Người ở lại, và họ ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. 40 An-rê, anh của Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe Gio-an và đi theo Người. 41 Trước hết, ông ấy tìm gặp em mình là Si-môn và nói: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a’ – nghĩa là Đấng Ki-tô.”

Câu chuyện cho biết hai môn đệ đầu tiên của Đức Giê-su xuất phát từ nhóm môn đệ Gio-an Tẩy giả. Hai môn đệ này đã đến và xem nơi Đức Giê-su ở và họ đã ở lại với Người. Trình thuật 1,35-39 không cho biết tên của hai môn đệ này. Trong câu chuyện tiếp theo (1,40-41), một trong hai môn đệ được nêu tên là An-rê, nhằm giới thiệu Si-môn Phê-rô là anh của An-rê. Như thế, một trong hai môn đệ đầu tiên theo Đức Giê-su, không được nêu tên trong bản văn.

Các tác giả đưa ra nhiều giả thuyết về danh tánh môn đệ vô danh ở 1,35-40. Chẳng hạn, một số tác giả đồng hóa môn đệ vô danh ở 1,37 với môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Xem các tác giả: É. Cothenet, “Le quatrième évangile”, trong M.-É. Boismard; É. Cothenet, La tradition johannique, 1977, p. 288; É. Delebecque, Évangile de Jean, Texte traduit et annoté, (CRB 23), Paris, J. Gabalda et Cie, 1987, p. 13; R. E. Brown, La communauté du disciple bien-aimé, 1994, p. 35; F. J. Moloney, The Gospel of John, 1998, p. 7. Xem chi tiết về lập trường này trong Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư là ai? tr. 92-99.

Một số tác giả khác từ chối đồng hóa môn đệ vô danh ở 1,35-39 với môn đệ Đức Giê-su yêu mến, vì bản văn 1,35-41 không cho phép đồng hóa hai nhân vật này với nhau. Để tôn trọng bản văn, chúng tôi xem người môn đệ không được nêu tên ở 1,35-40 là môn đệ vô danh. Không thể đồng hóa môn đệ vô danh ở 1,37 với  “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” vì môn đệ này chỉ bắt đầu xuất hiện trong Tin Mừng ở ch. 13. Một môn đệ vô danh khác trong Tin Mừng xuất hiện ở 18,15.

    2. “Người môn đệ khác” 18,15

Sau khi “cơ đội và viên chỉ huy cùng các thuộc hạ của những người Do Thái bắt Đức Giê-su và trói Người lại” (18,12), những gì xảy ra tiếp theo được Tin Mừng Gio-an thuật lại ở 18,13-16: “13 Trước tiên, họ dẫn Người (Đức Giê-su) đến với Kha-nan. Ông ấy là nhạc phụ của Cai-pha, người làm thượng tế năm đó. 14 Cai-pha là người đã đề nghị với những người Do Thái rằng: ‘Tốt hơn nên để một người chết thay cho dân.’ 15 Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác (allos mathêtês) đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này (ho mathêtês ekeinos) biết vị thượng tế, ông ấy cùng với Đức Giê-su vào trong sân dinh thượng tế. 16 Còn Phê-rô đứng bên cổng, ở phía ngoài. Vậy người môn đệ khác (ho mathêtês ho allos), người quen biết vị thượng tế, nói với chị giữ cổng và dẫn Phê-rô vào.”

Điều lạ là “người môn đệ khác” ở 18,15-16 xuất hiện trong bối cảnh Đức Giê-su vừa bị bắt. Người bị dẫn đi như một phạm nhân và các môn đệ khác bỏ chạy, còn Phê-rô thì theo Người xa xa, và vì sợ hãi, ông đã không ngần ngại chối Thầy. Khác với tâm trạng của các môn đệ đang lo âu sợ hãi, “người môn đệ khác” ở 18,15 như đang ở trong một thế giới khác. Người môn đệ này ra vào dinh thượng tế không gặp khó khăn hay trở ngại gì. Hơn nữa môn đệ này còn nói với chị giữ cổng và dẫn Phê-rô vào dinh, nghĩa là các gia nhân cũng biết môn đệ này là người quen của vị thượng tế. Quan hệ thân quen với vị thượng tế là điều bản văn nhấn mạnh vì được nói đến hai lần trong hai câu 18,15-16: “Người quen biết vị thượng tế.Theo mạch văn, trước hết “người môn đệ khác” cùng đi với Phê-rô, kế đến một mình môn đệ này đi vào dinh, Phê-rô ở ngoài dinh. Sau đó, người môn đệ này đi ra dẫn Phê-rô vào dinh cùng với mình. Làm được điều này là do “quen biết vị thượng tế”. Đây là lần duy nhất trong Tin Mừng thứ tư, người thuật chuyện cho biết có môn đệ của Đức Giê-su quen biết vị thượng tế (18,15-16).

Một số tác giả dựa vào kiểu nói “người môn đệ khác” (allos mathêtês), cũng được dùng cho “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” ở 20,2-8, để đồng hóa “môn đệ khác” ở 18,15-16 với “môn đệ Đức Giê-su yêu mến”. M. Hengel tóm kết vấn đề như sau: “Việc đồng hóa ‘người môn đệ khác’ này với người môn đệ được yêu (hoặc Gio-an) được các Giáo Phụ Hy-lạp coi là đương nhiên trong cách chú giải của các ngài, và ở một giai đoạn rất sớm, một mạo từ xác định được thêm vào cụm từ không rõ ràng: ‘người môn đệ khác’ để làm rõ hơn (cf. 20,2-8). Dẫu vậy, vấn đề [‘người môn đệ khác’ ở 18,15-16] có phải là môn đệ được yêu hay không vẫn là vấn đề đang tranh cãi, nhưng đại đa số các nhà chú giải, khởi đầu với các Giáo Phụ đã có lý để hướng tới việc đồng hóa này.” (M. Hengel, The Johannine Question, 1989, p. 78-79).

Thực ra, việc đồng hóa “môn đệ khác” ở 18,15-16 với “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” gặp không ít khó khăn. Thật vậy, làm thế nào để dung hoà giữa “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến” ở sát bên cạnh Đức Giê-su trong bữa tiệc ly, và “người môn đệ khác” quen biết vị thượng tế, tự do ra vào dinh thượng tế ngay trong đêm Đức Giê-su bị bắt? Chúng tôi thuận theo lập trường của É. Cothenet và R. Schnackenburg về “người môn đệ khác” như sau: “Ở 18,15, vấn đề là ‘một môn đệ khác’ dẫn Phê-rô vào trong dinh Kha-nan, bởi vì môn đệ này ‘quen biết vị thượng tế’. Nhiều tác giả dựa vào quan hệ giữa người môn đệ này [môn đệ Đức Giê-su yêu mến] với Phê-rô (cf. 13,23-25) nghĩ [môn đệ khác ở 18,15] là ‘môn đệ Đức Giê-su yêu mến’. Nhưng bản văn không nói rõ điều này. Đàng khác, người ta biết rằng Đức Giê-su có những người ủng hộ mình cách kín đáo ở Giê-ru-sa-lem, ngay cả trong Thượng Hội Đồng, như Giô-xếp, người A-ri-ma-thê và Ni-cô-đê-mô (19,38-39; cf. 3,1; 7,50): Một trong số họ có thể đã can thiệp trong trường hợp này [18,15-16].” (É. Cothenet, “Le quatrième évangile”, dans M.-É. Boismard; É. Cothenet, La tradition johannique, 1977, p. 285).

R. Schnackenburg cũng cho rằng: “Người môn đệ khác” ở 18,15 là một người ở Giê-ru-sa-lem như trường hợp Ni-cô-đê-mô hay Giô-xếp người A-ri-ma-thê. R. Schnackenburg viết: “Cách đọc chính xác, không có mạo từ trước cụm từ ‘một môn đệ khác’ có thể phải thừa nhận rằng đó chỉ là một môn đệ nào đó không biết tên. Vì lẽ tất cả các nơi khác, tác giả Tin Mừng đều nói rõ: người môn đệ được yêu (19,26) hay ám chỉ người môn đệ này (20,2, ‘người môn đệ khác, là người Đức Giê-su yêu mến’), nên điều này càng dễ chấp nhận hơn. Thực vậy, chúng ta có thể biết đến một người khác ở Giê-ru-sa-lem, người quen biết vị thượng tế, là người thuộc nhóm những người đi theo Đức Giê-su. Cùng với anh và Ni-cô-đê-mô, Giô-xếp người A-ri-ma-thê, tóm tắt các môn đệ vùng Giu-đê – Giê-ru-sa-lem ở 7,3, La-da-rô và chị em anh ấy ở Bê-ta-ni-a, tổng cộng lại là một nhóm người không phải là không đáng kể. Họ xuất hiện trong phạm vi những người theo Đức Giê-su trong (in) và gần (near) thủ đô [Giê-ru-sa-lem].” (R. Schnackenburg, “Excursus eighteen: The Disciple whom Jesus Loved”, in Id., The Gospel According to St. John, Commentary on Chapters 13–21, vol. III, 1982, p. 386).

Những nhận định trên không phải là mới, vì từ năm 1959, F.-M. Braun đã cho rằng không thể đồng hóa “người môn đệ khác” ở 18,15 với Gio-an, con ông Dê-bê-đê. Người môn đệ khác này là một trong những người có địa vị (des notables) đã tin vào Đức Giê-su (xem F.-M. Braun, Jean le théologien et son évangile dans l’Église ancienne, t. I, Paris, Gabalda, 1959, p. 307-308).

Với những nhận định trên chúng tôi tôn trọng dữ liệu của bản văn, nên xem “người môn đệ khác” ở 18,15-16 là một môn đệ vô danh, quen biết vị thượng tế, môn đệ vô danh này không phải là môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Bản văn không cho phép đồng hóa “người môn đệ khác” ở 18,15-16 với “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” trong Tin Mừng. Môn đệ vô danh thứ ba được nói đến ở 21,2.

    3. Môn đệ vô danh ở 21,2

Môn đệ vô danh thứ ba là một trong hai môn đệ ở Ga 21,2. Ga  21 mở đầu trình thuật Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ bên bờ biển hồ Ti-bê-ri-a ở 21,1-3: “1 Sau những điều đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở biển hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. 2 Si-môn Phê-rô, Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các con ông Dê-bê-đê và hai người khác thuộc nhóm môn đệ của Người, các ông đang ở với nhau. 3 Si-môn Phê-rô nói với họ: ‘Tôi đi đánh cá.’ Các ông đáp: ‘Chúng tôi cùng đi với anh.’ Họ ra đi và lên thuyền, trong đêm ấy họ không bắt được gì cả.”

Trong nhóm môn đệ kể ra ở 21,2, có môn đệ Đức Giê-su yêu mến vì môn đệ này lên tiếng 21,7: “Người môn đệ – người Đức Giê-su yêu mến – nói với Phê-rô: “Chúa đó.” Theo các tác giả R. Brown; R. Schanckenburg và một số tác giả khác, môn đệ Đức Giê-su yêu mến phải là một trong “hai môn đệ khác” nói đến ở Ga 21,2. (Xem M.-É. Boismard, “Le disciple que Jésus aimait d’après Jn 21,1ss et 1,35ss”, RB 105/1 (1998) p. 78). Nếu như “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” là một trong hai môn đệ không được nêu tên ở 21,2, thì môn đệ còn lại là môn đệ vô danh. Môn đệ này có mặt trong nhóm môn đệ đi đánh cá. Bản văn không cho biết môn đệ vô danh này có phải là môn đệ vô danh ở 1,35-40 hay không. Vì thế, có thể xem môn đệ vô danh thứ ba trong Tin Mừng xuất hiện ở 21,2. Môn đệ vô danh thứ tư là môn đệ Đức Giê-su yêu, có vai trò quan trọng trong Tin Mừng.

II. Môn đệ Đức Giê-su yêu mến

“Môn đệ Đức Giê-su yêu mến” là môn đệ vô danh thứ tư trong Tin Mừng. Tên gọi này xuất hiện 5 lần trong Tin Mừng ở 13,23; 19,26; 20,2; 21,7.20. Người môn đệ này xuất hiện lần đầu tiên trong bữa tiệc ly (13,1-32). Trong 5 lần, 4 lần môn đệ này hiện diện với Phê-rô, 1 lần khác, dưới chân thập giá hiện diện thân mẫu Đức Giê-su, môn đệ Đức Giê-su yêu mến và một số phụ nữ (19,26). Sau đây là năm đoạn văn về môn đệ  Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng.

    1. Trong bữa tiệc ly (13,21-27)

Sau lời Đức Giê-su về ý nghĩa việc rửa chân, người thuật chuyện kể ở Ga 13,21-27: “21 Nói những điều đó xong, Đức Giê-su xao xuyến trong tâm thần. Người làm chứng và nói: ‘A-men, a-men, Thầy nói cho anh em: Một người trong anh em sẽ nộp Thầy.’ 22 Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. 23 Có một người trong các môn đệ của Người (ek tôn mathêtôn) đang dùng bữa, tựa vào lòng Đức Giê-su, đó là người Đức Giê-su yêu mến (hon êgapa ho Iêsous). 24 Vậy Si-môn Phê-rô làm hiệu cho ông ấy hỏi xem Thầy nói về ai. 25 Ông này nghiêng mình vào ngực Đức Giê-su nói với Người: ‘Thưa Thầy, ai vậy?’ 26 Đức Giê-su trả lời: ‘Kẻ đó là người mà chính Thầy chấm miếng bánh và trao cho.’ Rồi Người chấm miếng bánh [cầm lấy và] trao cho Giu-đa con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. 27 Và khi nhận miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào ông ấy. Đức Giê-su nói với ông ấy: ‘Anh làm gì thì làm mau đi.’”

Trong đoạn văn văn này, môn đệ Đức Giê-su yêu mến có vị trí đặc biệt thân tình với Đức Giê-su: “Tựa vào lòng Đức Giê-su” (13,23). Trong khi Phê-rô không hiểu việc Đức Giê-su rửa chân (13,6-10), thì môn đệ này đặt câu hỏi và Đức Giê-su trả lời, như thể Thầy trò biết rõ về nhau.

    2. Hiện diện dưới chân thập giá (19,25-27)

Tin Mừng Gio-an thuật lại những gì xảy ra dưới chân thập giá ở 19,25-27: “25 Vậy đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu của Người  chị của thân mẫu Người, Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát và Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi Đức Giê-su thấy thân mẫu và môn đệ (ton mathêtên) đứng bên cạnh,  môn đệ Người yêu mến (hon êgapa) –, Người nói với thân mẫu: ‘Thưa bà, đây là con của bà.’ 27 Rồi Người nói với môn đệ: ‘Đây là mẹ của anh.’ Và kể từ giờ đó, người môn đệ đón nhận mẹ về nhà mình.”

Sự hiện diện của “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” là biến cố đặc biệt chỉ được thuật lại trong Tin Mừng Gio-an. Khi mà không một môn đệ nào khác được nói đến, kể cả Nhóm Mười Hai, thì môn đệ Đức Giê-su yêu mến đứng bên cạnh thân mẫu Đức Giê-su dưới chân thập giá. Hơn nữa, Tin Mừng đề cao vai trò làm chứng của môn đệ này về những gì xảy ra khi Đức Giê-su tắt thở (19,25-35). Người thuật chuyện nhấn mạnh lời chứng của môn đệ này ở 19,35: “Người đã xem thấy, đã làm chứng, và lời chứng của người ấy là xác thực; và người ấy biết rằng mình nói sự thật để cả anh em nữa, anh em tin.” Người đã xem thấy, đã làm chứng ở đây là môn đệ Đức Giê-su yêu mến chứ không phải là ai khác.

    3. Sáng sớm ngày ngày thứ nhất trong tuần (20,1-3)

Người thuật chuyện kể lại những gì xảy ra sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần ở 20,1-3: “1 Vào ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ lúc sáng sớm, khi trời còn tối, bà thấy tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ. 2 Bà liền chạy đến với Si-môn Phê-rô và người môn đệ khác (ton allon mathêtên)  người Đức Giê-su thương mến (hon ephilei ho Iêsous) –, bà nói với các ông: ‘Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.’ 3 Vậy Phê-rô và người môn đệ khác (ho allos mathêtês) đi ra và họ đi đến mộ…”

Trong đoạn văn này, hai lần “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” được gọi là “người môn đệ khác” (ho allos mathêtês). Kết thúc trình thuật (20,8-9), tác giả cho biết lòng tin của môn đệ Đức Giê-su yêu mến: “Ông ấy đã thấy và đã tin” (20,8), còn lòng tin của Phê-rô không được nói đến trong đoạn văn 20,1-10.

    4. Đánh cá ở biển hồ Ti-bê-ri-a (21,4-7)

Sau khi Đức Giê-su Phục Sinh, Người hiện ra với các môn đệ khi các ông đánh cá ở biển hồ Ti-bê-ri-a. Câu chuyện xảy ra ở 21,4-7: “4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó là Đức Giê-su. 5 Đức Giê-su nói với các ông: ‘Này các con, không có gì ăn ư?’ Các ông trả lời Người: ‘Không.’ 6 Người nói với các ông: ‘Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền, và anh em sẽ tìm thấy.’ Vậy các ông thả lưới, và rồi không sao kéo lên nổi vì đầy cá. 7 Người môn đệ (ho mathêtês) – người Đức Giê-su yêu mến (ekeinos hon êgapa ho Iêsous) – nói với Phê-rô: ‘Chúa đó.’ Si-môn Phê-rô vừa nghe nói: ‘Chúa đó,’ vội khoác áo vào, vì đang ở trần rồi ông ấy nhảy xuống biển.”

Trong đoạn văn này, môn đệ Đức Giê-su yêu mến là người đầu tiên trong nhóm nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh đang đứng trên bãi biển. Bản văn đề cao tương quan mật thiết của môn đệ này với Đức Giê-su vì nhận biết Thầy từ xa và trước nhất.

    5. Số phận môn đệ Đức Giê-su yêu mến (21,18-24)

Tác giả kết thúc sách Tin Mừng bằng cách đặt song song số phận Phê-rô và số phận môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Sau khi trao quyền chăn dắt đàn chiên (21,15-17), người thuật chuyện kể ở 21,18-24: “‘18 A-men, a-men, Thầy nói cho anh (Phê-rô): Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng và đi đến nơi anh muốn. Nhưng khi đã về già, anh sẽ dang tay của anh ra, và người khác sẽ thắt lưng anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn.’ 19 Người nói điều đó để cho biết bằng cái chết nào ông ấy sẽ tôn vinh Thiên Chúa. Nói xong điều đó, Người bảo ông: ‘Anh hãy theo Thầy.’ 20 Phê-rô quay lại, thấy môn đệ (ton mathêtên)  người Đức Giê-su yêu mến (hon êgapa ho Iêsous)  đi theo sau; ông này là người, trong bữa ăn tối, đã nghiêng mình vào ngực của Người và nói: ‘Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?’ 21 Khi thấy người này, Phê-rô nói với Đức Giê-su: ‘Thưa Thầy, còn anh này thì sao?’ 22 Đức Giê-su nói với ông ấy: ‘Nếu Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy theo Thầy.’ 23 Vậy có lời đồn giữa anh em là người môn đệ ấy không chết. Nhưng Đức Giê-su đã không nói với ông ấy là ‘Anh ấy không chết’, mà là ‘Giả như Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến [, thì việc gì đến anh?]’ 24 Chính môn đệ này là người làm chứng về những điều đó và  người đã viết những điều này, và chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực.”

Đoạn văn trên cho biết Phê-rô sẽ chết để tôn vinh Thiên Chúa, còn môn đệ Đức Giê-su yêu mến sẽ ở lại cho đến khi Đức Giê-su đến. Không phải người môn đệ này không chết về thể lý, nhưng Đức Giê-su nhấn mạnh việc người môn đệ này ở lại mãi trong lời chứng, được thuật lại trong sách Tin Mừng. Bao lâu sách Tin Mừng còn được đọc thì bấy lâu người môn đệ này vẫn còn ở lại nơi độc giả.

III. Ý nghĩa tên gọi “môn đệ Đức Giê-su yêu mến”

Ý nghĩa tên gọi “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” được trình bày qua năm điểm: (1) kiểu nói gọn “người môn đệ”, “môn đệ khác”; (2) động từ “yêu mến” và “thương mến”; (3) cách gọi che khuất ý nghĩa thần học: “môn đệ được yêu” hay “môn đệ Chúa yêu”; (4) diễn tả tình yêu của Đức Giê-su dành cho tất cả môn đệ; (5) khuôn mẫu cho độc giả và bảo đảm tính xác thực của mặc khải trong Tin Mừng.

(1) Trong 5 đoạn văn trên, danh xưng “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” được nói gọn “người môn đệ” (ho mathêtes), 3 lần ở 19,27; 21,23.34, hay “môn đệ khác” (ho allos mathêtês), 4 lần ở 20,2.3.4.8. Trong mạch văn, cách nói gọn trên chỉ rõ ràng về môn đệ Đức Giê-su yêu mến, không thể lẫn lộn với ai khác.

(2) Về động từ “yêu mến” trong tên gọi “môn đệ Đức Giê-su yêu mến”, có 4 lần dùng động từ “agapaô” (yêu mến) ở 13,23; 19,26; 21,7.20 và 1 lần dùng động từ “phileô” (thương mến) ở 20,2. Xem ý nghĩa cách dùng hai động từ “agapaô” (yêu mến) và “phileô” (thương mến) trong Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư là ai?, tr. 101-112.

(3) Người ta thường gọi “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” là “môn đệ được yêu” hay “môn đệ Chúa yêu” (le disciple bien-aimé, the beloved disciple). Tuy nhiên, cách gọi tắt này che khuất nét độc đáo của bản văn. Thật vậy, trong 5 lần môn đệ này xuất hiện trong Tin Mừng, 1 lần ở 19,26 hiểu ngầm tên Đức Giê-su: “môn đệ Người yêu mến” (hon agapa), còn 4 lần khác đều có tên Đức Giê-su (ho Iêsous) trong tên gọi “môn đệ Đức Giê-su yêu mến”. Đức Giê-su là chủ từ của động từ “yêu mến” (agapaô - phileô). Tên của Đức Giê-su (ho Iêsous) là điểm độc đáo trong danh xưng “môn đệ Đức Giê-su yêu mến”. Nếu gọi là “môn đệ được yêu” thì chưa nói rõ là được ai yêu. Nếu gọi là “môn đệ Chúa yêu” thì không chính xác, vì bản văn không có từ “Chúa” (ho kurios) nhưng là tên gọi Đức Giê-su (ho Iêsous). Thiết nghĩ cách nói đầy đủ “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” giữ được ý nghĩa thần học quan trọng. Về phía Đức Giê-su, tên gọi này xác định rõ tình yêu của Đức Giê-su dành cho môn đệ này. Về phía người môn đệ, chính tình yêu của Đức Giê-su làm nên tên gọi của mình. Tình yêu của Đức Giê-su là căn tính của môn đệ này. Nói cách khác, môn đệ này hiện hữu, sống và tồn tại nhờ tình yêu của Đức Giê-su.

(4) Tên gọi đầy đủ “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” gợi đến tình yêu Đức Giê-su dành cho tất cả các môn đệ. Mở đầu phần thứ hai sách Tin Mừng (Ga 13–21) người thuật chuyện cho biết Đức Giê-su đã yêu mến những kẻ thuộc về mình và Người yêu mến họ đến cùng (13,1). Sau đó Đức Giê-su khẳng định ở 15,13: “Tình yêu cao cả này thì chưa ai có, đó là người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu của mình.” Đức Giê-su yêu mến các môn đệ đến nỗi hy sinh mạng sống mình vì họ. Như thế, tình yêu Đức Giê-su dành tất cả các môn đệ được cụ thể nơi “môn đệ Người yêu mến”. Nói cách khác tên gọi đầy đủ “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” gợi về tình yêu của Đức Giê-su dành cho tất cả môn đệ.

(5) Theo thần học Tin Mừng, độc giả qua mọi thời được mời gọi đồng hoá với môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Vì mọi người tin đều được Đức Giê-su yêu mến, được Người mời gọi bước vào tương quan tình yêu và nhận biết Người theo khuôn mẫu “môn đệ Đức Giê-su yêu mến.” Vậy môn đệ này trở thành nhân vật biểu tượng để mọi người nổ lực nên giống môn đệ này trong tương quan với Đức Giê-su. Đồng thời, Tin Mừng khẳng định  “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” là nhân vật lịch sử. Môn đệ này là chứng nhân có uy thế vì đã hiện diện dưới chân thập giá và làm chứng về những gì đã thấy và đã nghe (19,35; 21,24). Điều này bảo đảm tính chân thực của mặc khải dành cho độc giả.

Kết luận

Bốn môn đệ vô danh trong Tin Mừng thứ tư là (1) môn đệ không được nêu tên trong hai môn đệ đầu tiên của Đức Giê-su (1,35-39); (2) môn đệ vô danh quen biết vị thượng tế, đã dẫn Phê-rô vào dinh Kha-nan trong đêm Đức Giê-su bị bắt (18,15-16); (3) một trong hai môn đệ vô danh ở 21,2; (4) môn đệ Đức Giê-su yêu mến là môn đệ vô danh và có vai trò đặc biệt trong Tin Mừng. Môn đệ này trổi vượt trên tất cả các môn đệ khác và là khuôn mẫu cho độc giả về năm lãnh vực:

-   Tình yêu. Tình yêu của Đức Giê-su làm nên tên gọi người môn đệ này, 
    và người môn đệ này cũng bày tỏ tình yêu dành cho Đức Giê-su.

-   Lòng trung tín. Người môn đệ này trung tín với Thầy khi can đảm 
    hiện diện dưới chân thập giá.

-   Lòng tin. Sau khi thấy ngôi mộ trống, môn đệ này “đã thấy và đã tin” 
    dù chưa thấy Đức Giê-su Phục Sinh.

-   Sự hiểu biết. Môn đệ này là người trước tiên trong nhóm các môn đệ 
    nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh trên bờ biển hồ Ti-bê-ri-a.

-   Làm chứng. Lời chứng của người môn đệ này có uy tín, bảo đảm 
    tính xác thực nội dung mặc khải trong Tin Mừng.

Với những đặc tính trổi vượt trên, Tin Mừng Gio-an mời gọi độc giả qua mọi thời đại hãy sống và hãy đi vào tương quan với Đức Giê-su như người môn đệ này. Xem phân tích chi tiết về “bốn môn đệ vô danh” trong tập sách Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư là ai?, tr. 91-177./.


1 nhận xét:

  1. Nặc danh10:39 21/8/11

    Bài sâu sắt, đáng quan tâm. Kính đề nghị quý Vị Thần học khai triển chú thích thêm.
    Trân trọng

    Trả lờiXóa