Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 10 tháng 03 năm 2020.
Nội dung
1. Thần Khí là sự thật
2. Người tin và sự thật
a) Làm sự thật
b) Có sự thật ở trong mình
c) Thuộc về sự thật
Kết luận
Dẫn nhập
Danh
từ “sự thật” (alêtheia) xuất hiện 20 lần trong ba thư Gio-an. Trong đó 9
lần trong 1Ga 1,6.8; 2,4.21a.21b; 3,18.19; 4,6; 5,6; 5 lần trong 2Ga
1a.1b.2.3.4 và 6 lần trong 3Ga 1.3a.3b.4.8.12. Trong thư thứ nhất Gio-an, tác
giả mời gọi độc giả: “thuộc về sự thật”, “ở trong sự thật” và “làm sự thật”. “Sự
thật” là đề tài lớn và bao trùm thần học Tin Mừng Gio-an và ba thư. Phần trình
bày dưới đây chỉ bàn sơ lược đến những điểm song song giữa thư thứ nhất và Tin
Mừng Gio-an liên quan đến “người tin” và “sự thật”, cho dù bản văn Tin Mừng
Gio-an và thư thứ nhất đặt trong hai bối cảnh khác nhau.
Nội dung
thư thứ nhất Gio-an cho thấy cộng đoàn đang ở trong tình trạng chia rẽ trầm
trọng. Nhóm sai lạc được tác giả lá thư gọi là “ngôn sứ giả” (1Ga 4,1), “những
kẻ phản Ki-tô” (1Ga 2,18a.18b.22; 4,3),
“những kẻ dối trá” (1Ga 1,10; 2,4.22; 4,20; 5,10). Những lời nặng nề trên dành cho nhóm sai lạc.
Họ là những người đã từng là thành viên của cộng đoàn, xuất phát từ cộng đoàn
(1Ga 2,19). Thực tế này đối lập với “sự thật”, đối lập với chân lý đức tin mà
cộng đoàn tuyên xưng. Trong bối cảnh khủng hoảng niềm tin từ trong cộng đoàn, tác
giả mời gọi độc giả: “thuộc về sự thật”, “hành động theo sự thật” dựa trên cơ
sở “Thần Khí là sự thật”. Điều này giúp độc giả sống và giữ vững niềm tin chính
thống. Bài viết triển khai đề tài “sự thật” qua hai điểm: (1) Thần Khí là sự thật;
(2) người tin và sự thật.
1. Thần Khí là sự thật
Ở 1Ga
5,6, “Thần Khí” được định nghĩa bằng “sự thật”. Tác giả viết ở 1Ga 5,5-6: “5 Ai
là người thắng thế gian, nếu không là người tin rằng: Đức Giê-su là Con Thiên
Chúa? 6 Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến nhờ nước và máu, không chỉ trong
nước, nhưng trong nước và trong máu; và Thần Khí là Chứng Nhân (to pneuma
estin to marturoun), vì Thần Khí là sự thật (to pneuma estin hê alêtheia).”
Trong mạch văn, định nghĩa “Thần Khí là sự thật” giải thích vai trò chứng nhân
của Thần Khí: “Thần Khí là Chứng Nhân”. Nội dung lời chứng là Đức Giê-su Ki-tô,
Đấng đã đến nhờ nước và máu (5,6a), Người là
Con Thiên Chúa (5,5b).
Trong
Kinh Thánh, định nghĩa về Thiên Chúa bằng động từ “là” (eimi) diễn tả
một trong những vai trò hay khía cạnh của mầu nhiệm Thiên Chúa. Chẳng hạn,
“Thiên Chúa là ánh sáng (ho theos phos estin)” (1Ga 1,5); “Thiên Chúa là
tình yêu (ho theos agapê estin)” (1Ga 4,8.16). Định nghĩa “Thần Khí là
sự thật” (1Ga 5,6) hiểu theo hai hướng: (a) Khẳng định tính xác thực điều Thần
Khí làm chứng. Thần Khí cho người tin biết sự thật về Đức Giê-su là “Đấng đã
đến nhờ nước và máu” (5,6a). (b) Định nghĩa về Thần Khí (5,6c) mặc khải cho con
người biết một trong những đặc điểm của Thần Khí là sự thật.
Nối kết
giữa “Thần Khí” (pneuma) và “sự thật” (alêtheia) đã xuất hiện
trong Tin Mừng Gio-an. Cuối sứ vụ, hai lần (Ga 14,15-17; 15,26) Đức Giê-su đồng
hoá Đấng Pa-rác-lê (paraklêtos) với “Thần Khí sự thật” (pneuma tês
alêtheias). Lần thứ nhất, Người nói với các môn đệ ở Ga 14,15-17: “15 Nếu
anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy; 16 và chính Thầy sẽ
can thiệp với Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng
Pa-rác-lê khác (allon paraklêton), để Người ở với
anh em mãi mãi. 17 Thần Khí sự thật (pneuma tês alêtheias) là Đấng
thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy cũng chẳng biết
Người. Còn anh em, anh em biết Người, vì
Người ở lại giữa anh em và Người sẽ ở trong anh em.” Trong đoạn văn này,
“Đấng Pa-rác-lê khác (allon
paraklêton)” chính là Đấng Pa-rác-lê (ho paraklêtos) sẽ được nói đến
trong những đoạn văn sau (Ga 14,26; 15,26). Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đồng hoá
Đấng Pa-rác-lê với “Thánh Thần” (to pneuma to hagion)” (Ga 14,26) và với
Thần Khí sự thật (to pneuma tês alêtheias)”
(Ga 15,26). Người nói với các môn đệ ở Ga 15,26: “Khi Đấng Pa-rác-lê (paraklêtos)
đến, Đấng mà chính Thầy sẽ sai đến với anh
em từ nơi Cha, Người là Thần Khí sự thật (pneuma tês alêtheias),
Người xuất phát từ nơi Cha, Đấng Pa-rác-lê sẽ làm chứng về Thầy.” Vậy, “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” trong
Tin Mừng Gio-an có vai trò làm chứng “trước” và “trong” các môn đệ. Làm chứng “trước”
các môn đệ để họ biết Đức Giê-su là ai và vững tin vào Người. Làm chứng “trong”
các môn đệ khi họ làm chứng về Đức Giê-su trước thế gian. Xem phân tích trong
Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư.
Các
trích dẫn trên cho thấy liên hệ giữa Tin Mừng Gio-an và trong thư thứ nhất về đề
tài Thần Khí. Nếu như trong Tin Mừng, “Đấng Pa-rác-lê là Thần Khí sự thật” (Ga 14,16-17)
thì trong thư thứ nhất “Thần Khí là sự thật” (1Ga 5,6). Nếu như trong Tin Mừng,
“Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” làm chứng cho Đức Giê-su thì trong thư thứ
nhất “Thần Khí là Chứng Nhân” (1Ga 5,6). Tương
quan giữa “Thần Khí” và “sự thật” như trên là cơ sở để tác giả thư thứ nhất xây
dựng tương quan giữa người tin và sự thật.
2. Người tin và sự thật
Tác giả thư 1Ga mời gọi độc giả bước vào tương quan
với sự thật qua nhiều kiểu nói: “làm sự thật”, “sự thật ở trong mình” và “thuộc
về sự thật”. Những lời này diễn tả các khía cạnh khác nhau về liên hệ giữa
“người tin” và “sự thật”.
a) Làm sự thật
Trong
phần đầu Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su định nghĩa “làm sự dữ” và “làm sự thật” ở
Ga 3,20-21: “20 Mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng và không đến với ánh
sáng để các việc của họ khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ làm sự thật thì đến
với ánh sáng để các việc của người ấy được bày tỏ ra là đã được thực hiện trong
Thiên Chúa.” Đề tài “làm sự dữ” và “làm sự thật” trong Tin Mừng Gio-an đặt
trong bối cảnh khác với thư thứ nhất Gio-an. Thật vậy, trong Tin Mừng thứ tư, sự xung đột liên quan
đến những kẻ chưa tin, những kẻ chống đối Đức Giê-su. Họ là những người Do
Thái, những người Pha-ri-sêu và các thượng tế. Các môn đệ xung đột với thế gian
thù ghét, vì thế gian này bách hại họ (Ga 15,18–16,4a). Nói chung, đối lập
trong Tin Mừng là đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa những người tin vào Đức
Giê-su và những người không tin. Đối lập giữa cộng đoàn đón nhận Tin Mừng vào
cuối thế kỷ I với Do Thái giáo và những kẻ bách hại cộng đoàn thời đó.
Những đối lập trên không xuất hiện trong thư thứ
nhất Gio-an. Xung đột trong thư 1Ga xảy ra trong cộng đoàn người tin. Các ngôn
sứ giả, những kẻ phản Ki-tô là những người đã từng là thành viên của cộng đoàn
(1Ga 2,19). Trong hoàn cảnh này, tác giả thư
1Ga khích lệ cộng đoàn hãy thống nhất giữa lời nói và việc làm. Tác giả viết ở
1Ga 1,6: “Nếu chúng ta nói rằng: Chúng ta có sự hiệp thông với Người (Thiên
Chúa) mà chúng ta đi trong bóng tối, là chúng ta nói dối và không làm sự
thật.” Nói là “hiệp thông với Thiên Chúa” mà lại “đi trong bóng tối” là mâu
thuẫn và không thống nhất giữa “lời nói” với “việc làm”. Trong trường hợp này, nói
“hiệp thông với Thiên Chúa” là nói dối và “đi trong bóng tối” là “không làm sự
thật”. Vậy, làm thế nào để “nói sự thật” và “làm sự thật”.
b) Có sự thật ở trong mình
Để có
khả năng “nói sự thật” và “làm sự thật” thì cần có “sự thật ở trong mình”. Theo
tác giả thư 1Ga, “người nói dối” là người không có sự thật ở trong mình. Tác
giả định nghĩa “nói dối” ở 1Ga 2,4: “Kẻ nói rằng: ‘Tôi biết Người (Đức Giê-su
Ki-tô)’ mà không giữ các điều răn của Người, là kẻ nói dối và sự thật không ở
trong người ấy.” Nói dối là không thống nhất trong lời nói và hành động. Nói là
“biết Đức Giê-su” nhưng lại “không giữ các điều răn của Người”. Điều “ngôn hành
bất nhất” này là dấu chỉ “sự thật không ở trong người ấy” và người ấy không thể
làm sự thật và hành động trong sự thật. Để “có sự thật” ở trong mình, con người
cần đứng về phía sự thật, hay nói theo ngôn ngữ Gio-an là “thuộc về sự thật”.
c) Thuộc về sự thật
Tác
giả thư thứ nhất Gio-an động viên cộng đoàn hãy yêu thương bằng hành động, bằng
sự thật và thuộc về sự thật. Tác giả viết ở 1Ga 3,18-19: “18 Hỡi các con bé
nhỏ, chúng ta đừng yêu mến bằng lời nói hay bằng miệng lưỡi nhưng
bằng hành động và bằng sự thật. 19 Trong điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng
ta thuộc về sự thật và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Người (Thiên Chúa).”
Tác giả mời gọi độc giả đừng yêu thương bằng đầu môi chót lưỡi, nhưng yêu
thương “trong hành động và sự thật (en ergôi kai alêtheiai)”,
cách yêu thương này chứng tỏ mình “thuộc về sự thật (ek tês alêtheias)”.
Trong
Tin Mừng Gio-an, “thuộc về ai” là đề tài thần học quan trọng. “Thuộc về quỷ”
hay “thuộc về Thiên Chúa” (Ga 8,44-17), “thuộc về thế gian” hay “không thuộc về
thế gian” (Ga 15,18-19; 17,14.16) dẫn đến hệ quả mang tính quyết định: “được
Sống” hay “phải chết”, “có” hay “không có” sự sống đời đời. Theo thần học Tin
Mừng và thư thứ nhất Gio-an, “thuộc về Thiên Chúa”, “thuộc về Đức Giê-su” là
“thuộc về sự thật”.
Trong
trình thuật Thương Khó, sau khi Đức Giê-su khẳng định với Phi-la-tô ở Ga 18,36:
“Vương quốc của Tôi không thuộc về thế gian này…”, Phi-la-tô nói với Đức
Giê-su: “Vậy chính Ông là vua sao?” (Ga 18,37a) Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài
nói rằng Tôi là Vua. Vì điều này Tôi đã sinh ra, và vì điều này Tôi đã đến thế
gian để làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi”
(Ga 18,37b). Đối thoại giữa Phi-la-tô và Đức Giê-su cho thấy mục đích sứ vụ của
Đức Giê-su là “làm chứng cho sự thật”. Đồng thời “thuộc về sự thật” là điều
kiện tiên quyết để có thể “nghe Đức Giê-su”. Mạch văn cho phép hiểu rằng
Phi-la-tô không thuộc về sự thật, Ông ấy không xét xử Đức Giê-su theo sự thật,
nên sau khi hỏi Đức Giê-su: “Sự thật là gì?”, Phi-la-tô đã bỏ đi ra ngoài. Ông
ấy không dám đối diện với sự thật. Đó là sự thật về chính ông ấy và sự thật về
Đức Giê-su. Xem bài viết: “Sự thật là gì trong Ga 18,28–19,16a”.
Kết luận
Phân
tích trên cho thấy sự liên hệ giữa thư thứ nhất Gio-an và Tin Mừng thứ tư về
hai mối tương quan: (a) “Thần Khí” và “sự thật”: “Thần Khí là sự thật (to
pneuma estin hê alêtheia)” trong thư 1Ga (1Ga 5,6), và “Thần Khí sự thật (to
pneuma tês alêtheias)” trong Tin Mừng Gio-an (Ga 14,16; 15,26; 16,13). (b)
“Người tin” và “sự thật”: Độc giả được mời gọi “Làm sự thật (poieô tên
alêtheian)” (1Ga 1,6 // Ga 3,20), “thuộc
về sự thật (ek tês alêtheias)” (1Ga 3,19 // Ga 18,37) và “có sự thật ở
trong mình (en toutô hê alêtheia estin)” (1Ga 2,4).
Cho
dù bối cảnh Tin Mừng và thư thứ nhất Gio-an khác nhau, nhưng trong hoàn cảnh
nào đi nữa, độc giả cũng được mời gọi bước vào tương quan với “sự thật”. Người tin
có thể rơi vào hoàn cảnh khó khăn thử thách đến từ bên ngoài (Tin Mừng Gio-an),
hay khủng hoảng đến từ bên trong cộng đoàn (thư thứ nhất Gio-an). Nhưng trong mọi
hoàn cảnh, người tin được mời gọi “đứng về phía sự thật”, “thuộc về sự thật”,
“ở trong sự thật” và “hành động theo sự thật”.
Câu
Phi-la-tô hỏi Đức Giê-su: “Sự thật là gì?” cũng có thể là câu hỏi của độc giả. Hãy
đọc toàn bộ Tin Mừng và ba thư Gio-an, để biết sự thật là gì. Có thể tóm kết sự
phong phú và độc đáo của đề tài “sự thật” như sau: Lời Thiên Chúa là sự thật
(Ga 17,17); toàn bộ giáo huấn của Đức Giê-su là sự thật (Ga 8,45-46). Đặc biệt,
sự thật là chính Đức Giê-su vì Người là sự thật (Ga 14,6). Sự thật là Đấng
Pa-rác-lê vì Đấng này là “Thần Khí sự thật” (Ga 15,26) và “Thần Khí là sự thật”
(1Ga 5,6).
“Sự
thật” (alêtheia) là đề tài lớn trong thần học Tin Mừng và ba thư Gio-an.
Bài chia sẻ này chỉ trình bày một vài khía cạnh về “sự thật” trong thư thứ nhất
Gio-an. Tác giả thư 1Ga mời gọi cộng đoàn và độc giả hãy lựa chọn “thuộc về sự
thật”, “ở trong sự thật” và “làm sự thật”. Đây là cách sống của người “thuộc về
Thiên Chúa”, “ở trong Thiên Chúa” và “hiệp thông với Người”. Lời mời gọi trên cho
thấy hiểu biết Lời Chúa là cần thiết nhưng chưa đủ, điều quan trọng là sống Lời
Chúa, để Lời Chúa ở lại trong mình, để Lời Chúa hướng dẫn mọi hành động, lời
nói của mình trong cuộc sống./.
Kính thưa quý độc giả gần xa,
Trả lờiXóaHôm nay 27.12.2011, là ngày lành, tháng tốt, năm hên cho tất cả những người yêu thích tìm vào "Blog TIN MỪNG GIOAN". Chúng ta gửi đến nhau trong ngày ý nghĩa này lời cầu chúc tốt đẹp nhất trong chính Đấng là "Sự thật", là "Tình Yêu" và là "Sự sống", để chúng ta được "thuộc về sự thật", "ở trong sự thật" và "làm sự thật" như "Người môn đệ Đức Giêsu yêu mến" ước mong.
Xin cám ơn cha về bài viết rất sâu sắc và chuyển đến độc giả hợp thời đúng lúc, trong bầu khí của Mùa Giáng Sinh hồng phúc.