Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Ngày 28 tháng 03 năm 2020.
Nội dung
I. Bối cảnh và cấu trúc 11,1-54
1.
Bản văn
2. Bối
cảnh
3. Cấu
trúc
II. Ý nghĩa “chết và sống”
1.
“Chết và sống” của La-da-rô
2.
“Chết và sống” của Đức Giê-su
3.
“Chết và sống” của người tin
Kết luận
Dẫn nhập
Tại sao lấy tựa đề “chết
và sống” mà không phải là “sống và chết”? Đoạn Tin Mừng Gio-an 11,1-54 khởi đầu
bằng cái chết của La-da-rô (11,14) và kết thúc bằng việc Thượng Hội Đồng quyết
định giết Đức Giê-su (11,47-53). Bầu khí tang tóc, khóc thương bao trùm đoạn
văn. Trong khi sự kiện Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại chỉ được trình bày qua
mấy chữ ngắn ngủi (11,43). Bản văn nhấn mạnh đề tài “chết” nên được đặt trước từ “sống”. Vả lại, “sự chết” đặt trước phù hợp với
quy luật “sự sống” như Đức Giê-su cho biết ở 12,24: “A-men,
a-men, Thầy bảo anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, nó vẫn trơ
trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó sinh nhiều hạt.”
Đoạn văn 11,1-54 đặt ra cho độc giả ba câu hỏi.
(1) Tại sao Đức Giê-su
không đến sớm hơn để cứu La-da-rô? Quyết định ở lại thêm hai ngày và để
La-da-rô chết liệu có đi ngược lại với tình thương của Người dành cho gia đình
này không? Khi Đức Giê-su nói: “bệnh này không đến nỗi chết” (11,4) nghĩa là có thể cứu, tại sao lại không cứu?
(2) Tại sao Đức Giê-su lại
làm cho La-da-rô sống lại để rồi chính anh ấy lại chết vì sự sống lại của mình?
Người thuật chuyện cho biết ở 12,10-11: “10 Các thượng tế quyết định giết
cả La-da-rô, 11 vì tại anh mà nhiều người Do Thái đã bỏ đi và tin vào Đức Giê-su.”
(3) Tại sao Đức Giê-su làm
cho La-da-rô sống lại mà không làm cho người tin và
thân nhân người tin được sống lại? Phải chăng Đức Giê-su ưu đãi gia đình chị em
La-da-rô hơn các môn đệ, khi họ phải đối diện với bách hại?
Ba câu hỏi trên nảy sinh từ bản văn, nên chính bản văn sẽ đưa ra câu trả lời.
Để tìm giải đáp cho ba câu hỏi trên bài viết trình bày hai mục: (I) bản văn, bối
cảnh và cấu trúc 11,1-54; (II) ý nghĩa “chết và sống” của La-da-rô, của Đức Giê-su và của người tin.
I. Bối cảnh và cấu trúc 11,1-54
Kết thúc trình thuật với
việc gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46) là chưa đầy đủ ý nghĩa mặc khải trong ch.
11. Cần nối kết với đoạn văn tiếp theo (11,47-54) để làm lộ ra điều nghịch lý:
người có khả năng làm cho người khác sống lại thì sắp phải chết. Nói cách khác,
người có quyền trên sự chết lại chọn con đường “hy sinh mạng sống mình vì đàn
chiên” (10,11). Để chuẩn bị phân tích đoạn văn dài 11,1-54, phần sau trình bày ba
điểm: (1) bản văn, (2) bối cảnh và (3) cấu trúc.
1.
Bản văn
Câu chuyện về cái chết
của La-da-rô và quyết định giết Đức Giê-su (Ga 11,1-54) được thuật lại như sau:
11,1 Có một người bệnh là La-da-rô ở Bê-ta-ni-a, làng
của Ma-ri-a và Mác-ta, chị của cô ấy. 2 Ma-ri-a là người đã xức dầu thơm cho
Chúa, và lau chân Người bằng tóc của mình. Em
của cô ấy là La-da-rô bị bệnh. 3 Vậy các chị sai người đến nói với Người: “Thưa
Thầy, này người Thầy thương mến bị bệnh.” 4 Nghe vậy, Đức Giê-su nói: “Bệnh này
không đến nỗi chết nhưng vì vinh quang của Thiên Chúa, để qua đó Con Thiên Chúa
được tôn vinh.” 5 Đức Giê-su yêu mến Mác-ta, em cô ấy và La-da-rô. 6 Tuy nhiên,
sau khi nghe rằng anh ấy bệnh, Người còn ở lại nơi Người đang ở thêm hai ngày. 7
Sau điều đó, Người nói với các môn đệ: “Chúng ta cùng trở lại Giu-đê.” 8 Các môn
đệ nói với Người: “Thưa Ráp-bi,
mới đây những người Do Thái
tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại đi đến đó sao?” 9 Đức Giê-su trả lời: “Ban ngày chẳng
có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không
vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. 10 Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì ánh sáng không ở trong
người ấy.” 11 Người đã nói những điều ấy, và sau đó, Người nói với các ông: “La-da-rô,
bạn của chúng ta, đang yên giấc; nhưng Thầy đi để đánh thức anh ấy.” 12 Các môn
đệ nói với Người: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc, anh ấy sẽ được cứu.” 13 Đức Giê-su
nói về cái chết của anh ta, nhưng họ tưởng rằng Người nói về giấc ngủ thường. 14
Bấy giờ Người mới nói rõ ràng với các ông: “La-da-rô đã chết, 15 Thầy mừng cho
anh em, để anh em tin, Thầy đã không có mặt ở đó. Nhưng chúng ta cùng đi đến với
anh ấy.” 16 Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các đồng môn: “Cả chúng ta nữa,
chúng ta cùng đi để chết với Thầy.”
17 Khi đến nơi, Đức Giê-su nhận thấy anh ấy đã ở
trong trong mồ bốn ngày rồi. 18 Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khoảng 15 dặm (2,8
km). 19 Nhiều người trong những người Do
Thái đến với Mác-ta và Ma-ri-a để an ủi các cô
về người em. 20 Vậy khi Mác-ta nghe rằng Đức Giê-su đến, cô ấy ra gặp Người. Còn
Ma-ri-a ngồi ở nhà. 21 Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây,
em con đã không chết. 22 [Nhưng] bây giờ con biết rằng: Bất cứ điều gì Thầy xin
cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho Thầy.” 32 Đức Giê-su nói với chị ấy: “Em
chị sẽ sống lại.” 24 Mác-ta nói với Người: “Con biết rằng em con sẽ sống lại, trong
sự sống lại vào ngày sau hết.” 25 Đức Giê-su nói với chị ấy: “Chính Thầy là sự
sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống, 26 và
tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn đời sẽ không chết. Chị có tin điều
đó không?” 27 Chị ấy nói với Người: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin rằng chính Thầy
là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”
28 Nói xong điều đó, cô ấy đi và gọi Ma-ri-a, em của
cô. Cô ấy nói nhỏ: “Thầy đến rồi và Thầy gọi em.” 29 Nghe vậy, Ma-ri-a vội đứng lên đến với Người. 30 Lúc đó, Đức
Giê-su chưa vào làng, nhưng Người vẫn ở chỗ Mác-ta đã gặp Người. 31 Vậy những
người Do Thái đang ở với Ma-ri-a trong nhà và chia buồn với cô ấy,
thấy Ma-ri-a vội vã đứng dậy đi ra, họ đi theo cô ấy, vì tưởng cô ấy đi ra
mộ để khóc ở đó. 32 Khi Ma-ri-a đến gần Đức Giê-su, vừa thấy Người, cô ấy liền phủ
phục dưới chân Người và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không
chết.” 33 Khi Đức Giê-su thấy cô ấy khóc, và những người Do
Thái đi với cô ấy cũng khóc, Người thổn thức trong tâm
trí và xao xuyến. 34 Người nói: “Các người đặt anh ấy ở đâu?” Họ nói với Người:
“Thưa Thầy, hãy đến và hãy xem.” 35 Đức Giê-su khóc. 36 Vậy những người Do
Thái nói: “Xem kìa! Ông ta thương anh ấy biết mấy.” 37
Nhưng vài người trong nhóm họ nói: “Ông ấy đã mở mắt cho người mù lại không thể
làm cho anh ấy khỏi chết sao?”
38 Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng. Người đi
tới mộ. Đó là một cái hang và có phiến đá đậy lại. 39 Đức Giê-su nói: “Đem
phiến đá này đi.” Mác-ta, chị người chết, nói với Người: “Thưa Thầy, nặng mùi
rồi, vì đã bốn ngày.” 40 Đức Giê-su nói với chị ấy: “Thầy đã chẳng nói với chị
rằng nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” 41 Vậy họ đem
phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha
đã lắng nghe Con. 42 Phần Con, Con biết rằng: Cha hằng lắng nghe Con, nhưng vì
đám đông đứng quanh đây nên Con đã nói, để họ tin rằng chính Cha đã sai Con.”
43 Nói xong điều đó, Người kêu lên một tiếng lớn: “La-da-rô, hãy ra ngoài.” 44 Người
chết liền đi ra, chân, tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su nói với
họ: “Hãy cởi ra cho anh ấy và hãy để anh ấy đi.” 45 Nhiều
người trong những người Do
Thái – những người đến với Ma-ri-a – thấy những
gì Người làm, đã tin vào Người. 46 Nhưng vài người trong
nhóm họ đến với những người Pha-ri-sêu và nói cho họ những gì Đức Giê-su đã
làm.
47 Vậy các thượng tế và
những người Pha-ri-sêu triệu tập Thượng Hội Đồng và nói: “Chúng ta làm gì đây vì người này làm
nhiều dấu lạ? 48 Nếu chúng ta cứ để Ông ấy như thế tất cả sẽ tin vào Ông
ấy, và người Rô-ma sẽ đến, họ sẽ huỷ diệt nơi thánh và dân tộc chúng ta.” 49 Một
người trong số họ là Cai-pha, đang là thượng tế năm ấy, nói với họ: “Các ông không biết gì cả, 50 các ông cũng chẳng nghĩ rằng: Điều lợi cho
các ông là một người chết cho dân và toàn thể dân tộc không
bị tiêu diệt.” 51 Điều
đó, ông ấy không tự mình nói ra, nhưng vì đang là thượng tế năm ấy, ông ấy tiên
báo rằng Đức Giê-su sắp phải chết cho dân tộc, 52 và không chỉ cho dân tộc, nhưng
còn để con cái Thiên Chúa đang tản mác quy tụ về thành một. 53 Vậy từ ngày
đó, họ quyết định giết Người. 54 Vậy Đức Giê-su không đi lại công khai giữa những
người Do Thái nữa; nhưng từ nơi ấy,
Người đến một vùng gần hoang mạc, vào một thành gọi là Ép-ra-im, và Người ở lại
đó với các môn đệ. (Xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư).
2.
Bối cảnh
Trong Tin Mừng,
sứ vụ Đức Giê-su được trình bày trong
khung cảnh một ngày làm việc.
Bình minh ở ch. 1,
khi ánh sáng bắt đầu chiếu rọi vào thế gian:
“Người là ánh sáng thật, chiếu soi mọi người, đến trong thế gian” (1,9). Giờ
ngọ ở ch. 8 và ch. 9 khi Đức Giê-su khẳng định Người là ánh sáng của thế gian.
Ngày làm việc xế chiều với ch. 11, vì cái chết đã đến gần, Thượng Hội Đồng đã
quyết định giết Đức Giê-su (11,53). Người kết
thúc sứ vụ ở ch. 12 và mặc khải về ý nghĩa sự
chết của Người cho các môn đệ trong các ch. 13–17. Ch. 18–19 là đêm tối, người
ta đến bắt Đức Giê-su vào ban đêm và Người hoàn tất cuộc đời trên
thập giá. Đoạn văn 11,1-54 là một mắt xích trong “ngày” sứ vụ của Đức Giê-su. Từ
ch. 11, Người không còn tranh luận trực tiếp với những kẻ chống đối nữa (tranh
luận kết thúc ở cuối ch. 10).
3. Cấu trúc
Tìm hiểu cấu trúc giúp
khảo sát bản văn trước khi phân tích. Dựa vào yếu tố nhân vật và nơi chốn,
đoạn văn 11,1-54 có cấu trúc đồng tâm A, B, C, B’, A’:
Phần A. 11,1-6 trình bày hoàn cảnh ba
chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô. Cách giải quyết của hai chị em là
sai người đi báo cho Đức Giê-su biết. Cách giải quyết của Đức Giê-su là ở
lại thêm hai ngày sau khi nghe tin La-da-rô bị bệnh. Lúc này Đức Giê-su
đang ở ngoài Giu-đê. Phần mở đầu (A. 11,1-6) song song với phần kết (A’. 11,54),
Đức Giê-su rời khỏi đó đi vào vùng gần hoang địa. Phần B. 11,7-16 là đối thoại
giữa Đức Giê-su và các môn đệ về việc La-da-rô chết. Đức Giê-su quyết định trở
lại Bê-ta-ni-a trong bối cảnh Người đang bị những người Do Thái tìm ném đá
(11,8). Tô-ma động viên các đồng môn cùng đi để chết với Thầy (11,16). Như thế,
phần B trình bày hai ý tưởng song song: La-da-rô đã chết còn Đức Giê-su đang bị
đe doạ giết chết. Phần B (11,7-16) song
song với B’ (11,47-53) nói về việc Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su.
Phần trọng tâm của cấu trúc C. 11,17-46 là lúc Đức Giê-su ở Bê-ta-ni-a.
Phần này có hai chi tiết quan trọng: (a) lời mặc khải của Đức Giê-su ở 11,25-26
được minh hoạ bằng (b) dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,43).
II.
Ý nghĩa “chết và sống”
Bản văn 11,1-54 nói về “chết và sống” của
La-da-rô nên được trình bày trước. Kế đến bản văn cũng cho biết Đức Giê-su đang
bị đe doạ ném đá và Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su nên “chết và sống”
của Người được trình bày trong điểm tiếp theo. Cuối
cùng tổng hợp hai điểm trên để nói về “chết và sống” của người tin.
1. “Chết và sống” của La-da-rô
Trong Tin Mừng, nhân vật La-da-rô chỉ xuất hiện
ở đoạn văn 11,1-54 và đầu ch. 12 (12,1-11). Người thuật chuyện kể về La-da-rô,
nhưng chính La-da-rô lại không hề lên tiếng trong bản văn, anh ấy không đối thoại
trực tiếp hay gián tiếp với bất kỳ ai. Anh hiện diện trong bản văn như lời chất
vấn dành cho các nhân vật khác về ý nghĩa “sự chết” và “sự sống”. Những gì được
kể lại liên quan đến La-da-rô trong Ga 11–12 là “bị bệnh” (11,1), “chết”
(11,14), “sống lại” (11,43), “ăn” (12,2), rồi lại chuẩn bị “chết” (12,10). Vậy “chết
và sống” của anh ấy có ý nghĩa gì? Ba điểm sau bàn về sự hiện diện im lặng của
anh ấy trong bản văn: (1) các nhân vật nói về cái chết của La-da-rô; (2) anh ấy
sống lại để rồi chết; (3) nguyên lý của Đức Giê-su: “chết” để “sống”.
(1) La-da-rô không lên tiếng nhưng lại hiện diện trong suốt đoạn văn 11,1-54. Ý tưởng La-da-rô sẽ chết được nhắc tới ngay
từ phần dẫn nhập câu chuyện. Đức Giê-su nói: “Bệnh này không đến nỗi
chết, nhưng…” (11,4). Từ “nhưng”
báo trước anh ấy sẽ chết. Trong phần tiếp theo câu chuyện, cái chết của La-da-rô
trở thành đề tài để các nhân vật nói về anh ấy hay nói với nhau về sự chết. Bản
văn dành phần quan trọng để trình bày cảm nhận của người sống (Đức Giê-su,
Mác-ta, Ma-ri-a, những người Do Thái, đám đông) trước cái chết của La-da-rô.
(2) Đức
Giê-su gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,43), nhưng sự
sống lại của anh ta chỉ là ánh sáng loé lên trong đêm tối. Quả
thế, việc La-da-rô chết được bàn đến trong 42 câu
(11,1-42), trong khi dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ chỉ mô tả trong
2 câu (11,43-44). Hơn nữa, La-da-rô sống lại kéo theo hai cái chết khác. Thượng
Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su (11,53); và các thượng tế quyết định giết
cả La-da-rô, vì tại anh mà nhiều người Do Thái
đã bỏ họ và tin vào Đức Giê-su (12,10-11).
Vậy Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại để rồi chính Người và La-da-rô phải
đối diện với cái chết. La-da-rô chết, sống lại, để rồi lại
chết vì sự sống lại của mình. Nhân vật La-da-rô xuất hiện với cái chết thứ nhất
vì bệnh, và kết thúc bằng cái chết thứ hai vì quyết định của các thượng tế.
(3) Theo mạch
văn, ch. 11 nhấn mạnh cái chết thứ nhất (chết vì bệnh) của La-da-rô (11,1-42)
và ch. 12 nói đến cái chết thứ hai của anh (12,10-11). “Sự chết”
được đề cao vì nó phù hợp với nguyên lý “chết để sống” mà
Đức Giê-su đề ra ở 12,24-25: “24 A-men, a-men, Thầy bảo anh em: Nếu hạt lúa gieo
vào lòng đất không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó
sinh nhiều hạt. 25 Ai yêu mạng sống mình sẽ mất nó; ai ghét mạng sống mình
trong thế gian này, sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời.” Nguyên lý “chết đi để sinh nhiều hạt” được áp dụng trước tiên
cho Đức Giê-su, Người sẽ chết vì sự thù ghét của thế gian,
nhưng Người sẽ
chiến thắng: qua biến cố thập giá, Đức Giê-su đi
về với Cha, Người được tôn vinh.
Vậy câu
chuyện La-da-rô để lại nhiều câu hỏi cho độc giả:
Tại sao Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống
lại để rồi chính vì sự sống lại đó, anh ấy lại
phải chết? La-da-rô ra khỏi mồ là dấu lạ lớn lao, nhưng để làm gì? Dấu lạ này nói
về điều gì và cho ai? Phân tích về “chết và sống”
của Đức Giê-su soi sáng những
câu hỏi trên.
2. “Chết và sống” của Đức Giê-su
Từ ch. 11, Đức Giê-su không còn tranh luận trực
tiếp với những kẻ chống đối Người nữa. Trong các ch. 11–12, Đức Giê-su bắt đầu mặc
khải ý nghĩa sự chết và sự sống lại của Người. Trong bối cảnh này, phần sau phân tích ba điểm: (1) La-da-rô đã
chết, còn Đức Giê-su, Người đang bị đe doạ giết chết; (2) La-da-rô sống lại dẫn
đến quyết định giết Đức Giê-su; (3) chính Đức Giê-su là sự sống.
(1) Đầu ch. 11, La-da-rô đã chết (11,14), còn Đức Giê-su đang bị đe đọa giết chết. Các môn đệ nói với Người: “Thưa Ráp-bi, mới đây những người Do Thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại đi đến đó sao?” (11,8). Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đã bị bách hại từ ch. 5 (5,18). Việc những kẻ chống đối tìm bắt Người được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các ch. 7; 8; 10. Đối với các môn đệ, trở lại Bê-ta-ni-a đồng nghĩa với “đi để chịu chết”, như Tô-ma đã nói với các bạn đồng môn ở 11,16: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chết với Thầy.”
(2) Sau
dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ, Thượng Hội Đồng quyết
định giết Đức Giê-su (11,47-53). Điều trớ trêu là người làm cho kẻ chết sống
lại thì sắp phải chết. Đức Giê-su có quyền hành trên sự chết nhưng chính Người
không tránh khỏi cái chết. Quyết định của Thượng Hội Đồng
(11,53) là bước ngoặt trong Tin Mừng. Trước đây những người Do Thái
và những người Pha-ri-sêu tìm cách ném đá và bắt Đức Giê-su nhưng
chưa phải là quyết định chính thức của giới lãnh đạo Do Thái.
Với quyết định này, Đức Giê-su không tránh khỏi cái
chết. Đoạn văn 11,1-54 ở vào cuối sứ vụ Đức Giê-su, cái chết của
La-da-rô gợi đến cái chết của Người sắp xảy ra.
(3) Đoạn
văn 11,1-54 không chỉ nói về sự chết của Đức Giê-su mà còn mặc khải về sự sống lại
của Người. Người nói với Mác-ta ở 11,25:
“Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.” Nói đến “sống lại” đã hàm ẩn sự chết, nhưng cái
chết không nắm giữ được Người, Người sẽ sống lại vì chính Người là sự sống lại,
như Người đã nói với những người Do Thái ở 10,18: “Không
ai lấy mạng sống Tôi khỏi Tôi, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh nó. Tôi có quyền hy
sinh nó và Tôi có quyền lấy lại nó. Tôi đã nhận mệnh lệnh này từ nơi Cha của
Tôi.” Để minh chứng
cho điều này, Đức Giê-su gọi La-da-rô ra khỏi mồ. Việc
La-da-rô sống lại báo trước Đức Giê-su sẽ sống lại. Nói cách khác, qua “chết và sống” của La-da-rô, Đức Giê-su nói về “chết và sống” của
chính Người. Dấu lạ La-da-rô sống lại là dấu chỉ, nghĩa là Đức
Giê-su không sống lại theo kiểu như La-da-rô: sống
lại về thể lý để rồi lại chết. Sự sống lại của Đức Giê-su là sự sống mới,
không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian. Đó là sự sống của Thiên Chúa.
Người về với Cha, đồng thời ở trong các môn đệ, như Người đã nói ở 14,20: “Trong ngày đó, anh em sẽ biết rằng: Thầy ở trong
Cha của Thầy, anh em trong Thầy và Thầy trong anh em.”
Tóm lại, “chết và sống” của
Đức Giê-su đan vào nhau. Người là sự sống lại và là sự sống, nhưng lại sắp phải
chết. Người làm cho La-da-rô trỗi dậy sau khi chết bốn ngày, nhưng chính Người
không tránh khỏi cái chết. Đề tài “chết và sống” của
La-da-rô nói lên ý nghĩa “chết và sống” của
Đức Giê-su. Hơn nữa, đoạn văn 11,1-54 không chỉ liên quan đến La-da-rô
và Đức Giê-su, mà còn là mặc
khải quan trọng về “chết và sống” của người tin.
3. “Chết và sống” của người tin
Đề tài “chết và sống” của người tin có ý nghĩa thiết thực
vì liên quan đến cuộc đời độc giả. Ý nghĩa câu chuyện được trình bày qua sáu điểm:
(1) đối với La-da-rô, chết là điều tự nhiên của thân phận
làm người; (2) đối với người tin, chết là ngủ; (3) bế tắc và giấc mơ của con người
trước cái chết; (4) qua nhân vật Mác-ta, độc giả được mời gọi đi xa hơn niềm
tin tuyền thống; (5) Đức Giê-su làm điều không ai dám nghĩ tới để mời gọi độc
giả tin; (6) như các môn đệ, người tin được mời gọi can đảm đón nhận cái chết trong
hoàn cảnh bị bách hại vì tin vào Đức Giê-su.
(1) La-da-rô
chết vì bệnh là cái chết bình thường của thân phận con người. Đức Giê-su không
can thiệp vào tiến trình sống và chết thể lý. Sứ vụ của Người không
phải là cứu con người khỏi chết thể lý. Việc Đức Giê-su không
đến cứu La-da-rô là lời mời gọi con người
chấp nhận sự chết thể lý như là điều tất yếu của thân
phận làm người. Dấu lạ gọi La-da-rô
ra khỏi mồ không đề cao sự sống thể lý, vì La-da-rô sống lại để rồi chết. Hơn
nữa, chính Đức Giê-su cũng không đi ngược lại tiến trình sống và chết. Người
sống trọn vẹn thân phận làm
người. Người đón nhận cái chết mà những kẻ chống đối áp
đặt cho Người.
(2) Khi
nói với các môn đệ: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; nhưng Thầy đi
để đánh thức anh ấy” (11,11),
Đức Giê-su dùng từ “ngủ” để nói về sự chết thể lý. La-da-rô đã chết
mà Đức Giê-su lại nói là ngủ. Phải chăng đối với những người được gọi là “bạn
của Đức Giê-su” thì chết về thể lý chỉ là giấc ngủ?
Câu này giúp người đọc hiểu lời Đức Giê-su nói với Mác-ta ở 11,25: “Ai
tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống.” Người tin vào Đức
Giê-su thì chết về thể lý không còn gọi là chết nữa mà là “giấc ngủ”.
Nhưng các môn đệ không hiểu, Mác-ta cũng không hiểu lời Đức Giê-su. Phải chờ
đến lúc La-da-rô ra khỏi mồ thì các nhân vật trong câu chuyện và nhất là độc giả
mới có đủ các yếu tố để hiểu những lời Đức Giê-su đã nói.
(3) Câu chuyện cho
thấy cái chết của La-da-rô là một mất mát không thể bù đắp. Sự chết là bức
tường ngăn cách không thể vượt qua. Nơi ở của người chết là phần mộ, Mác-ta
đã từ chối mở phiến đá vì tử thi đã “nặng mùi” sau bốn ngày (11,39).
Sau khi La-da-rô chết, những gì còn lại là nỗi đau mất mát. Những người Do Thái
đến để an ủi (11,9) và chia buồn (11,31). Trước sự chết, con người chỉ còn biết
khóc thương. Phiến đá che mộ nói lên sự chia ly, ngăn cách giữa người sống và
người chết. Thái độ của Mác-ta và Ma-ri-a trong câu chuyện là hai thái độ khác
nhau của con người trước sự chết. Trong đoạn văn, không thấy Mác-ta khóc, nhưng
Ma-ri-a khóc. Mác-ta trao đổi và tuyên xưng đức tin với Đức Giê-su, còn Ma-ri-a
thì không. Mác-ta tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại trong ngày sau hết. Còn
Ma-ri-a diễn tả nỗi đau mất mát trước cái chết bằng nước mắt. Cả hai đều bất
lực trước khoảng cách giữa sống và chết.
Giấc mơ muôn thuở của con người là tránh khỏi cái chết. Khi La-da-rô chưa chết, hai chị em sai người đến báo cho Đức Giê-su, với hy vọng Người sẽ cứu cho La-da-rô khỏi chết. Khi La-da-rô đã chết rồi thì chỉ còn lại nuối tiếc. Cả hai chị em đều nói câu đầu tiên với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” (11,21.32). Những người Do Thái cũng chỉ biết thốt lên: “Ông ấy đã mở mắt cho người mù lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết sao?” (11,37). Họ nói về khả năng “làm cho La-da-rô khỏi chết”, còn bây giờ đã chết rồi, không ai dám nghĩ đến việc anh ta sẽ sống lại.
(4) Đứng trước sự
chết, con người tin vào sự sống lại trong ngày sau hết. Niềm tin truyền thống
này được thể hiện qua trao đổi giữa Đức Giê-su và Mác-ta (11,21-27). Xem
ra Mác-ta ở vào tư thế chủ động và xác tín niềm tin của mình. Khi Đức Giê-su
nói: “Em chị sẽ sống lại” (11,23), Mác-ta thưa: “Con biết rằng em con sẽ
sống lại, trong sự sống lại vào ngày sau hết” (11,24). Độc giả biết là Mác-ta
đã không hiểu đúng lời Đức Giê-su. Người muốn nói La-da-rô sẽ sống lại ngay bây
giờ thì Mác-ta lại hiểu là sống lại trong ngày sau hết. Khi Đức Giê-su nói với
chị ấy: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã
chết cũng sẽ được sống. Và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao
giờ phải chết. Chị có tin điều đó không?” (11,25-26), Mác-ta trả lời: “Thưa
Thầy, có. Con vẫn tin rằng Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế
gian” (11,27). Nhưng Mác-ta đã không hiểu ý nghĩa lời Đức Giê-su, vì khi Người nói
với chị: “Đem phiến đá này đi” (11,39a), chị từ
chối và nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì đã bốn ngày” (11,39b). Mác-ta không
hề nghĩ là em chị sẽ sống lại ngay bây giờ.
Khi Đức Giê-su nói với
Mác-ta ở 11,40: “Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy
vinh quang của Thiên Chúa sao?” (11,40), Người mời gọi Mác-ta và độc giả đi xa
hơn niềm tin truyền thống. Độc giả nhận ra rằng lời tuyên xưng của Mác-ta về sự
sống lại trong ngày sau hết (11,24) và về Đức Giê-su là “Đức
Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (11,27) cũng là tuyên xưng niềm
tin của cộng đoàn Gio-an và của Ki-tô hữu. Tuy nhiên qua sự
hiểu lầm của Mác-ta, bản văn dẫn người đọc đi xa hơn và hiểu đúng hơn mặc khải của
Đức Giê-su về sự sống lại.
(5) Đối diện với sự chết, Đức Giê-su đã
làm điều không ai dám nghĩ tới: gọi La-da-rô ra khỏi mồ. Dấu lạ này là niềm vui bất
ngờ và lớn lao cho mọi người. Theo mạch văn, niềm tin của Mác-ta đã tiến thêm
một bước dài sau khi thấy em cô ra khỏi mồ. Như thế, mục đích câu chuyện
là mời gọi những người chứng kiến dấu lạ và độc giả tin vào lời Đức Giê-su ở 11,25-26a
(trích dẫn trên đây). Nội dung niềm tin gồm hai khía cạnh: (1) Về đối tượng của
lòng tin, đó là tin vào Đức Giê-su (11,45), tin rằng Chúa Cha đã sai Người
(11,42), tin Đức Giê-su là sự sống lại và là sự sống (11,25), tin Người có
quyền hành trên sự chết, dù sẽ chết nhưng Người sẽ sống lại. (2) Về phía người
tin, ai tin vào Đức Giê-su thì không còn phải chết nữa vì đã có sự sống đời đời
ngay bây giờ chứ không phải chờ đến ngày sau hết. Trước sự bế tắc của con người
khi đối diện với sự chết, lời Đức Giê-su là niềm hy vọng lớn lao cho độc giả. bản
văn cho thấy “chết và sống” của La-da-rô là dấu
chỉ về “chết và sống” của người tin. Việc La-da-rô ra khỏi mồ không
chỉ liên quan tới anh ấy, mà liên quan đến sự sống đích thực của mọi người.
(6) Về phía các môn
đệ, các ông sẽ cùng chịu chung số phận với Thầy. Các ông sẽ bị bách hại và bị đe
doạ giết chết vì đã tin vào Đức Giê-su. Trong ch. 11, Tô-ma động viên các bạn
đồng môn cùng đi để chết với Thầy (11,16). Trước khi bước vào cuộc Thương khó,
Đức Giê-su cho các môn đệ biết ở 16,2: “Họ sẽ làm cho anh em trở thành những
người bị khai trừ khỏi hội đường. Sẽ đến giờ, kẻ nào giết anh em cũng tưởng
mình phụng thờ Thiên Chúa.” Đức Giê-su không cứu các môn đệ khỏi cái chết thể
lý như La-da-rô. Vậy việc La-da-rô sống lại có ý nghĩa gì cho các môn đệ?
Ngay đầu đoạn văn
11,1-54, Đức Giê-su hé mở ý nghĩa việc Người sắp làm. Người nói với các môn đệ ở
11,15: “Thầy mừng cho anh em, để anh em tin, Thầy đã không có mặt ở đó.” Mục
đích của dấu lạ là “để anh em tin”. Tin ở đây không chỉ là tin vào sự sống lại
trong ngày sau hết như Mác-ta, nhưng là tin vào sự sống đời đời ngay ở đời này (11,25-27).
Dấu lạ La-da-rô ra khỏi mồ trở thành sự khích lệ và động viên các môn đệ trong
hoàn cảnh bị bách hại. Dù bị bách hại đến chết, người môn đệ vẫn được sống.
Chứng kiến La-da-rô ra khỏi mồ, người tin có thêm sức mạnh để sống quy luật hạt
lúa mì gieo vào lòng đất: “chết” để “sống” (12,24).
La-da-rô sống lại là bảo chứng để người tin dám hy sinh mạng sống mình để
giữ sự sống đích thực như Đức Giê-su nói ở 12,25: “Ai
yêu mạng sống mình sẽ mất nó; ai ghét mạng sống mình trong thế gian này, sẽ giữ
được nó cho sự sống đời đời.” Dấu lạ La-da-rô ra khỏi mồ là niềm vui thực
sự cho người tin về “chết” (sự chết thể lý) và “sống”
(sự sống đời đời). Bản văn mời gọi độc giả nhận ra quà tặng sự sống này trong
hoàn cảnh bị bách hại vì niềm tin vào Đức Giê-su. Đồng thời dám sống trọn vẹn thân
phận làm người, không thất vọng khi đối diện với cái chết thể lý của người thân
và của chính mình, cái chết mà Đức Giê-su gọi là “giấc ngủ”.
Kết
luận
Bài viết đã phần nào trả
lời ba câu hỏi trên.
(1) Tại sao Đức
Giê-su không đến cứu La-da-rô? Người không đến cứu La-da-rô không phải vì không
thương gia đình này, nhưng Người không muốn can thiệp vào quy luật sống, chết
thể lý của thân phận con người. Đã là người thì không ai tránh khỏi cái chết.
La-da-rô được sống lại về thể lý cũng không ra ngoài quy luật này, anh ấy sẽ
lại chết. Đức Giê-su đã sống thân phận làm người, Người đã chết. Người là Con Thiên
Chúa, đến từ Thiên Chúa, Thiên Chúa là Cha của Người, nhưng Người cũng không
tránh khỏi cái chết thể lý thì việc La-da-rô chết là chuyện bình thường của đời
người. Việc Đức Giê-su không đến cứu La-da-rô trở thành lời mời gọi mọi người can
đảm sống thân phận làm người.
(2) Tại sao Đức Giê-su
làm cho La-da-rô sống lại? Dấu lạ La-da-rô sống lại là dấu chỉ về sự chết và
sống lại của Đức Giê-su. Trong biến cố Thương Khó, sau khi bị bắt và bị tra hỏi,
Người không thể giải thích ý nghĩa cái chết của Người cho các môn đệ được nữa.
Nên qua dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ, Đức Giê-su báo trước sự sống lại của
Người. Đức Giê-su bày tỏ uy quyền của Người trên sự chết (sự chết của La-da-rô
và của chính Người). Sự tôn vinh Thiên Chúa và tôn vinh Con Thiên Chúa ở
11,4.40 cần được nối kết với biến cố thập giá là lúc Đức Giê-su được tôn vinh.
(3) Tại sao Đức
Giê-su không làm cho người tin hay thân nhân của người tin sống lại như
La-da-rô? Đức Giê-su chia sẻ với ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô (và
qua đó với độc giả) thân phận phải chết của kiếp người. Thấy La-da-rô ra khỏi
mồ là điều vượt quá mong ước của hai chị em Mác-ta, Ma-ri-a và những người
chứng kiến. Hai cô chỉ mong cậu em khỏi chết vì bệnh, nhưng giải pháp của Đức
Giê-su trước cái chết của La-da-rô đã giải quyết tận gốc rễ của sự chết. Đó là
làm cho người tin sẽ “không bao giờ phải chết” (11,26). Vậy, tình thương của
Đức Giê-su không chỉ dành cho ba chị em ở Bê-ta-ni-a vào thời đó mà còn dành cho
độc giả qua mọi thời đại. Ai tin thì không còn phải chết nữa. Điều độc đáo
là mặc khải
của Đức Giê-su đi xa hơn niềm tin truyền thống: tin vào sự sống lại ngày sau
hết. Đức Giê-su mời gọi “tin” vào sự sống đời đời ngay bây giờ. Dấu lạ La-da-rô
sống lại là dấu chỉ về “chết và sống” của người tin. Trước bế tắc của sự chết,
bản văn cho độc giả biết phải làm gì để được sống. Liệu độc giả có dám tin và sống
lời Đức Giê-su ở 11,25-26a: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin
vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Và tất cả những ai sống và tin vào
Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2020/03/ga-111-54-chet-va-song-cua-la-da-ro-uc.html
Rất cám ơn cha đã nêu lên ba nghi vấn có thể đang chất chứa trong suy nghĩ của nhiều độc giả - và cha đã lý giải cho độc giả một cách thật sâu sắc với lập luận rõ ràng dựa trên chính bản văn Tin Mừng Ga để biết rõ nguyên lý của Đức Giêsu đối với cái vòng “tử-sinh-tử” của Lazarô.
Trả lờiXóaBài chia sẻ này cho độc giả những khám phá thật hay khi đọc kỹ bản vân Ga 11,1-54 để thấy: đúng, nhân vật Lazaro hoàn toàn tịnh khẩu; đồng thới bài chía sẻ này cũng mang tính hiện sinh lắm cha ơi. Lý do, giữa hoàn cảnh thế giới đang sống trong lo âu sợ hãi vì sự lây nhiễm, tử vong đến chóng mặt của đại dịch virus Corona, nhiều người hoang mang lo lắng, cầu nguyện chờ mong hoài mà cảm thấy như Chúa vẫn cứ làm ngơ! Tựa như câu chuyện xưa trên biển hồ sóng to gió lớn các môn đệ la hoảng chết đến nơi mà Chúa vẫn ngủ! (Mt 8, 23-26), hay khi tiệc cưới Cana hết rượu, Đức Mẹ thỉnh cầu mà Chúa nói như làm ngơ (Ga 2, 1-11) v.v. – qua sự kiện này, những người tin sẽ kiên trì vững tin vào quyền năng của Đức Giêsu, Đấng cầm quyền sinh tử trong tay mà không thất vọng, vì Người sẽ chữa lành nhân loại của Người, vì Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, làm sao Ngài có thể không chạnh thương sự khổ đau của thế giới hôm nay! Con tin chắc chắn là như thế.
Ngoài ra con cũng suy nghĩ Chúa chưa đến ngay để cứu Lazaro vì Chúa muốn tôi luyện niềm tin của hai cô Matta, Maria và tiếp đến là chúng ta qua mọi thời đại, để đức tin của chúng con phải được được lớn lên trong thử thách và tiến tới một đức tin trưởng thành thật sự. Điều đó đúng phải không cha?
Con cám ơn cha 70 lần 7
Đúng vậy, đối diện với cái chết của người thân qua mọi thời đại, Đức Giê-su vừa mời gọi mọi người can đảm sống thân phận làm người, vừa ban tặng cho người tin món quà lớn lao hơn cả việc gọi La-da-rô ra khỏi mồ: ai tin vào Người thì không chết nữa vì đã có sự sống đời đời nơi mình.
XóaThưa cha, vậy việc tác giả đưa chi tiết Lazaro sẽ phải chết một lần nữa sau khi đã được Đức Giêsu cứu vào trong mạch văn có ý nghĩa gì? Bởi vì khi ông bước ra khỏi mồ thì dã là minh chứng cho quyền năng của Thiên Chúa rồi? Nếu sẽ lại chết, như vậy, Matta và Maria không phải sẽ cảm nhận đau khổ thêm 1 lần nữa hay sao? Điều này ám chỉ điều gì?
Trả lờiXóaNếu nói việc Chúa Giêsu có năng quyền trên sự chết thì con thắc mắc, Lazaro vẫn sẽ lại chết thì năng quyền này phải hiểu như thế nào?
Con cám ơn Cha.
1) Cái chết thứ nhất bì bệnh là cái chết của thân phận làm người, cái chết thứ hai là chết vì tin và làm chứng về Đức Giê-su. Đây là các chết trong hoàn cảnh bị bách hại. Người tin được mời gọi đón nhận cả hai cái chết này như La-da-rô.
Xóa2) Đức Giê-su có quyền năng trên sự chết nghĩa là Người có quyền năng ban cho người tin sự sống đời đời mà cái chết thể lý chỉ giấc ngủ.