25/03/2020

Thế gian (kosmos) là gì, là ai? (TM Gio-an)



Bài viết tiếng Pháp:

Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 25 tháng 03 năm 2020.


Nội dung

Dẫn nhập
I. Thế gian là sự vật
    1. Thế gian vũ trụ
    2. Thế gian trái đất
        a) Ở trong thế gian (16,28b; 17,11.13)
        b) “Đến thế gian” (3,19)
II. Thế gian là con người
    1. Thế gian nhân loại
        a) Thiên Chúa yêu mến thế gian (3,16)
        b) Đức Giê-su là ánh sáng của thế gian (8,12)
        c) Thế gian nhân loại cần đến ơn cứu độ
    2. Thế gian chưa tin
    3. Thế gian thù ghét
Kết luận




Dẫn nhập

Cách dùng từ “thế gian” (kosmos) trong Tin Mừng Gio-an có thể gây ngộ nhận. Chẳng hạn, Đức Giê-su nói ở 3,16: “Thiên Chúa đã quá yêu mến thế gian (kosmon), đến nỗi đã ban Con Một, để bất cứ ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời đời.” (Xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư). Tuy nhiên, đến cuối sứ vụ, Đức Giê-su thưa với Cha của Người ở 17,9: “Con can thiệp cho họ (các môn đệ), Con không can thiệp cho thế gian (kosmou) nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, vì họ là của Cha.” Phải chăng Đức Giê-su đưa các môn đệ ra khỏi thế gian và không quan tâm, không can thiệp cho thế gian nữa? Thế gian ở 17,9 là ai? Ở 17,18, Đức Giê-su nói với Cha của Người: “Như Cha đã sai Con đến thế gian (kosmon), Con cũng sai họ (các môn đệ) đến thế gian (kosmon).” Thế gian trong câu này là đối tượng sứ vụ của Đức Giê-su, và cũng là nơi  các môn đệ thi hành sứ vụ. Thế gian này chỉ về ai? Nghĩa khác của từ “thế gian” xuất hiện ở 15,18, khi Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Nếu thế gian (kosmos) ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.” Tại sao ghét? Thế gian này là ai?  Đứng trước những điều xem ra mâu thuẫn và khó hiểu trên, cần tìm hiểu nghĩa của từ “thế gian” trong Tin Mừng. Từ này xuất hiện 78 lần ở các nơi:

+ Ch. 1–12 (33 lần): 1,9.10a.10b.10c.29; 3,16.17a.17b.17c.19; 4,42; 6,14.33.51; 7,4.7; 8,12.23a23b.26; 9,5a.5b.39; 10,36; 11,9.27; 12,19.25.31a.31b.46.47a.47b.
+ Ch. 13–17 (40 lần): 13,1a.1b; 14,17.19.22.27.30.31; 15,18.19a.19b.19c.19d.19e; 16,8.11.20.21.28a.28b.33a.33b;  17,5.6.9.11a.11b.13.14a.14b.14c.15.16a.16b.18a.18b.21.23.24.25.
+ Ch. 18–21 (5 lần): 18,20.36a.36b.37; 21,25.

Với 78 lần, “thế gian” là từ khóa để tác giả xây dựng thần học. Phần sau trình bày năm nghĩa của từ “thế gian” qua hai mục: (I) thế gian là sự vật; (II) thế gian là con người.

I. Thế gian là sự vật

Nhóm nghĩa thứ nhất liên quan đến tạo thành của Thiên Chúa ở hai cấp độ: (1) thế gian là vũ trụ và (2) thế gian là địa cầu, là trái đất.

    1. Thế gian vũ trụ

Thế gian là vũ trụ được tìm hiểu qua bốn điểm: lời Đức Giê-su nói với Cha của Người (1) ở 17,5 và (2) ở 17,24; sau đó (3) nối kết 17,5.24 với phần đầu lời tựa Tin Mừng (1,1-3); cuối cùng (4) trình bày ý nghĩa thần học của thế gian vũ trụ.

(1) Ở đầu ch. 17, Đức Giê-su mặc khải về nguồn gốc của Người khi thưa với Cha ở 17,5: “Vậy giờ đây, lạy Cha, xin Cha tôn vinh Con bên Cha, vinh quang mà Con đã có bên Cha trước khi có thế gian.” Cụm từ “trước khi có thế gian (pro tou ton kosmon einai)” trong tiếng Hy-lạp gồm có giới từ (pro) + mạo từ ở thuộc cách (tou) + danh từ ở đối cách (ton kosmon) + động từ ở lối vô định (einai). Động từ “eimi” có nghĩa “là”, “có”, “hiện hữu” ở lối vô định “einai” và không có thuộc từ (attribut), nên kiểu nói “trước khi có thế gian” tương đương với “trước khi thế gian hiện hữu.” Trong một số thủ bản Hy-lạp: D* (s D2; Irlat Epiph), cụm từ “trước khi có thế gian” có dị bản (variante) là “trước khi thế gian sinh ra” (pro tou genesthai ton kosmon). Dị bản này dùng động từ “ginomai” (sinh ra, trở thành) ở lối vô định (infinitif) thì aoriste: “genesthai”. Như thế, ở Ga 17,5, động từ “eimi” (là, có, hiện hữu) và động từ “ginomai” (là, sinh ra, trở thành, trở nên) được dùng để mô tả thời điểm Đức Giê-su có vinh quang của Người. Thời điểm đó là “trước khi thế gian hiện hữu”, “trước khi thế gian được sinh ra” (17,5).

(2) Cuối ch. 17, Đức Giê-su lập lại ý tưởng này bằng từ ngữ khác. Người ngỏ lời với Cha ở 17,24: “Lạy Cha, về những người mà Cha đã ban cho Con, Con muốn rằng Con ở đâu, thì họ cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con vì Cha đã yêu mến Con trước khi thế gian được tạo thành.” Cụm từ “trước khi thế gian được tạo thành (pro katabolês kosmou)”, dịch sát “trước sự khởi đầu của thế gian.” Trong cụm từ này, danh từ Hy-lạp “katabolê” có nghĩa “nền móng”, “nền tảng” (foundation), “lúc khởi đầu”, “lúc bắt đầu”, “căn nguyên” (beginning).

(3) Ga 17,5.24 gợi đến câu đầu tiên của Tin Mừng ở 1,1: “Lời có lúc khởi đầu (en arkhêi), và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa.” Trong câu “Lời có lúc khởi đầu”, động từ “có” là động từ “eimi”, chia ở thì chưa hoàn thành (imparfait) “ên”; và danh từ “khởi đầu” (arkhê) gợi lại khởi đầu tạo thành vũ trụ ở đầu sách Sáng thế (sách đầu tiên của Kinh Thánh). Trong bản LXX (la Septante), bản dịch Kinh Thánh Híp-ri sang tiếng Hy-lạp, có cụm từ “lúc khởi đầu” ở St 1,1: “Lúc khởi đầu (en arkhêi), Thiên Chúa sáng tạo trời và đất.” Giới từ “pro” (trước khi) ở Ga 17,5.24 diễn tả sự “tiền hữu” (préexistence, sự có trước) của Đức Giê-su. Trong lời tựa Tin Mừng (1,1-18), tác giả khẳng định sự tiền hữu của Lời–Giê-su cách mạnh mẽ ở 1,1 và ở 1,3: “Nhờ Người (Logos), mọi sự được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành.” Ở Ga 17, không còn là lời tuyên xưng của tác giả như trong lời tựa mà chính Đức Giê-su khẳng định sự tiền hữu của Người. Người hiện hữu trước khi có thế gian vũ trụ. Nối kết giữa Ga 17,5.24 với Ga 1,1.3 và St 1,1 như trên cho phép hiểu từ “thế gian” ở Ga 17,5.24 chỉ về tất cả những gì được tạo thành, tất cả những gì hiện hữu, nghĩa là toàn thể vũ trụ này. H. Schlier viết: “Thế gian, trước hết là tất cả, panta. Thế gian là tất cả những gì được làm ra và những gì hiện hữu.” (H. Schlier, Essais sur le Nouveau Testament, [Lectio Divina 46], Paris, Le Cerf, 1968, p. 281).

(4) Về ý nghĩa, “thế gian vũ trụ” là khẳng định thần học quan trọng. Khi mở đầu (17,5) và kết thúc (17,24) ch. 17 như trên, Đức Giê-su mặc khải nguồn gốc và căn tính của Người với hai đặc điểm: (a) Người có vinh quang (doxa) bên Cha trước khi thế gian hiện hữu (17,5). (b) Người được Cha yêu mến trước khi thế gian được tạo thành (17,24). Như thế, hiểu từ “thế gian” nói đến ở 17,5.24 là “thế gian vũ trụ” để phân biệt với các nghĩa khác của từ này. Trong mạch văn Ga 17, “thế gian vũ trụ” không hiểu theo nghĩa khoa học hay lịch sử hình thành vũ trụ, nhưng là khẳng định thần học về nguồn gốc và căn tính của Đức Giê-su. Thế gian vũ trụ trong tương quan với vinh quang mà Đức Giê-su đã có (17,5) và với tình yêu Chúa Cha dành cho Người (17,24). Nghĩa từ “thế gian” ở 17,5.24 làm rõ điểm thần học nền tảng: thế gian hiện hữu là do công trình của Cha (Thiên Chúa) và Con (Đức Giê-su), nên chủ quyền tối thượng và tuyệt đối trên vũ trụ thuộc về Chúa Cha và Đức Giê-su. Với chủ quyền này, Đức Giê-su bày tỏ tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại (3,16). Thế gian theo nghĩa “thế gian vũ trụ” ít dùng trong Tin Mừng, nhưng lại là mặc khải quan trọng. Trong các đoạn văn khác, thế gian có nghĩa là trái đất.

    2. Thế gian trái đất

Từ “thế gian” chỉ về trái đất qua hai kiểu nói: (a) ở trong thế gian (16,28b; 17,11.13) và (b) “đến thế gian” (3,19).

        a) Ở trong thế gian (16,28b; 17,11.13)

Một số nơi trong Tin Mừng, “thế gian” hiểu theo nghĩa “trái đất”. Chẳng hạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 16,28: “Thầy xuất phát từ Cha và đã đến thế gian. Nay Thầy lại rời khỏi thế gian mà đi về với Cha.” Trong ch. 17, Đức Giê-su ngỏ lời với Cha về biến cố Thương Khó ở 17,11a: “Con không còn ở trong thế gian nữa, họ (các môn đệ) còn ở trong thế gian. Phần Con, Con đến với Cha.” Câu “Con không còn ở trong thế gian nữa” hiểu trong viễn cảnh sau Phục Sinh là lúc Đức Giê-su không còn hiện diện thể lý trong thế gian nữa. Sau đó, Đức Giê-su thưa với Cha ở 17,13: “Nhưng bây giờ, Con đến với Cha và Con nói những điều này ở trong thế gian để họ (các môn đệ) có nơi họ niềm vui trọn vẹn của Con.” Câu “Con nói những điều này ở trong thế gian” phù hợp với bối cảnh lịch sử trước khi Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó.

Hai kiểu nói: “rời khỏi thế gian” (16,28) và “không còn ở trong thế gian” (17,11), gợi đến sự chết thể lý của con người. Đối với Đức Giê-su, “không còn ở trong thế gian” (17,11), nghĩa là Người đã đi về với Cha (16,28). Lời này báo trước chia ly thể lý giữa Đức Giê-su và các môn đệ. Người thuật chuyện nói về giờ chết của Đức Giê-su ở 13,1a: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết rằng giờ của Người đã đến để ra khỏi thế gian này mà về với Cha.” Vậy về ý nghĩa thần học, biến cố thập giá là lúc Đức Giê-su rời khỏi thế gian mà về với Cha.

Từ “thế gian” trong các trích dẫn trên có nghĩa trái đất là nơi con người cư trú và sinh sống. Khi sinh ra, người ta “đến trong thế gian” (1,9; 16,21; 18,37). Bao lâu còn sống, người ta “ở trong thế gian” (17,11; 1,10; 9,5). Khi chết, người ta “ra khỏi thế gian” (13,1), “rời bỏ thế gian” (16,28). Như thế, bối cảnh một số đoạn văn cho phép hiểu “thế gian” là “trái đất”, “địa cầu”. Thế gian trái đất là ngôi nhà của nhân loại, trong tương quan với sự sống và sự chết thể lý của thân phận làm người.

        b) “Đến thế gian” (3,19)

Theo nghĩa thần học, Đức Giê-su đồng hoá với ánh sáng (8,12; 9,5; 12,46). Ở 3,19 và 12,46, Người dùng kiểu nói “ánh sáng đến thế gian” để nói về sứ vụ của Người. Người tuyên bố ở 3,19: “Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa.” Đức Giê-su là ánh sáng đã đến thế gian, nhưng thay vì đón nhận ánh sáng, “người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh sáng” (3,19), nghĩa là không đón nhận, không tin vào Đức Giê-su. Cuối sứ vụ, Đức Giê-su nhắc lại ở 12,46: “Tôi là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối.” Người đến thế gian để đưa người tin ra khỏi bóng tối. Như thế, t“thế gian” trong hai câu trên (3,19; 12,46) hiểu theo nghĩa “thế gian trái đất”. Trong viễn cảnh phổ quát của ơn cứu độ, trái đất là nơi Đức Giê-su thi hành sứ vụ nhằm cứu độ nhân loại.

Tóm lại, mục I đã xác định hai nghĩa của từ “thế gian” khi từ này nói về sự vật: (1) “thế gian vũ trụ” là tất cả những gì hiện hữu (17,5.24). (2) “thế gian trái đất” là nơi sinh sống của con người, nơi Đức Giê-su mặc khải ý định của Thiên Chúa cho con người. Hai nghĩa trên diễn tả một số điểm thần học quan trọng.  

II. Thế gian là con người

Từ “thế gian” không những là sự vật (chose) mà còn chỉ về ba nhóm người: (1) thế gian là nhân loại, (2) Thế gian chỉ những người chưa tin, và (3) thế gian gồm những người ghét Đức Giê-su và các môn đệ, gọi là thế gian thù ghét.

    1. Thế gian nhân loại

Thế gian là nhân loại xuất hiện trong hai kiểu nói: (a) Thiên Chúa yêu mến thế gian (3,16) và (b) Đức Giê-su là ánh sáng của thế gian (8,12; 9,5). Điểm cuối (c) cho biết thế gian nhân loại cần đến ơn cứu độ.

        a) Thiên Chúa yêu mến thế gian (3,16)

Sứ vụ của Đức Giê-su được giới thiệu ở đầu Tin Mừng, Đức Giê-su mặc khải ở 3,16-17: “16 Thiên Chúa đã quá yêu mến thế gian (kosmon), đến nỗi đã ban Con Một, để bất cứ ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời đời. 17 Vì Thiên Chúa không sai Con đến thế gian (kosmon) để lên án thế gian (kosmon), nhưng để nhờ Người, thế gian (kosmos) được cứu.” Từ “thế gian” ở dây có nghĩa phổ quát và nói về nhân loại. Đây không phải là thế gian sự vật (vũ trụ hay trái đất), vì tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian này là để ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Đức Giê-su, Con Một Thiên Chúa. Vậy đối tượng của tình yêu Thiên Chúa là toàn thể loài người trên mặt đất. Mọi người được mời gọi “tin” để không phải “hư mất” (3,16). Câu tiếp theo (3,17) xác nhận cách hiểu này, Đức Giê-su đến không phải để “lên án thế gian” mà “để nhờ Người, thế gian được cứu” (3,17b). Trong viễn cảnh này, thế gian là những con người (personnes), là toàn thể nhân loại, không loại trừ một ai.

Trong mạch văn 3,16-17, có thể thay từ “thế gian” bằng “nhân loại” hay “loài người”. Thiên Chúa đã yêu thương loài người và đã sai Con Một của Người đến cứu nhân loại khỏi sự chết. Sứ vụ của Đức Giê-su là trao ban sự sống đời đời cho bất cứ ai tin vào Người. Tác giả Tin Mừng dùng từ “thế gian” ở 3,16-17 để trình bày điểm thần học quan trọng: tính phổ quát của ơn cứu độ, nên thế gian là nhân loại.

        b) Đức Giê-su là ánh sáng của thế gian (8,12)

Đồng hoá Đức Giê-su với ánh sáng (8,12; 9,5; 12,46) là điểm độc đáo của thần học Tin Mừng. Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 8,12: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.” Từ “thế gian” trong kiểu nói “ánh sáng của thế gian” có nghĩa là ánh sáng cho nhân loại, bởi vì vế thứ hai (8,12b) nói đến con người: “không bước đi trong bóng tối” và “có ánh sáng của sự sống.” Mọi người được mời gọi “đi theo ánh sáng” để có sự sống đích thực. Ánh sáng là Đức Giê-su đã đến với loài người, đến với từng người, để cứu bất cứ ai tin. Về đề tài ánh sáng, xem các bài viết: Ánh sáng và bóng tối trong Tin Mừng Gio-an; Trong Tin Mừng Gio-an, biểu tượng ánh sáng dùng để làm gì?

        c) Thế gian nhân loại cần đến ơn cứu độ

Từ “thế gian” trong các kiểu nói: “yêu mến thế gian” (3,16) và “ánh sáng của thế gian” (8,12; 9,5) chỉ “loài người”, nên gọi là thế gian nhân loại. Thế gian này là một thực tại khách quan, không tốt, không xấu theo nghĩa luân lý. Tuy nhiên, thế gian nhân loại này không có sự sống đời đời nơi mình. Nên Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian để ban sự sống đời đời cho thế gian (3,16). Với tư cách con người, các môn đệ Đức Giê-su thuộc về thế gian nhân loại này. “Thế gian nhân loại” là một trong những yếu tố thiết yếu để xây dựng thần học Tin Mừng. Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến với nhân loại, nên thế gian nhân loại là đối tượng sứ vụ của Đức Giê-su. Người đến thế gian để cứu nhân loại khỏi hư mất. Tất cả những ai đón nhận và tin vào Người thì có sự sống đời đời ngay bây giờ và cả đời sau, như Người đã hứa với Mác-ta ở 11,25-26a: “25 Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống, 26a và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn đời sẽ không chết.”

Trong cuốn sách Yêu và ghét trong Tin Mừng Gio-an, phần I, tr. 78-88, “thế gian trái đất” và “thế gian nhân loại” được trình bày chung với nhau. Bài viết này tách thành hai nghĩa của từ “thế gian” để phân biệt “thế gian trái đất” là sự vật, còn “thế gian nhân loại” là con người. Vì hai nghĩa này trình bày những điểm thần học quan trọng của Tin Mừng. Ở 17,18, từ “thế gian” có nghĩa hẹp hơn để nói về những người chưa tin vào Đức Giê-su, nên gọi là “thế gian chưa tin.”

    2. Thế gian chưa tin

Trong ch. 17, Đức Giê-su nói với Cha về sứ vụ của Người và sứ vụ các môn đệ, qua đó gợi về sứ vụ của người tin qua mọi thời đại. Đức Giê-su gọi các môn đệ là “những người mà Cha đã ban cho Con” (17,6.9). Người ngỏ lời với Cha về các môn đệ ở 17,18: “Như Cha đã sai Con đến thế gian (kosmos), Con cũng sai họ đến thế gian (kosmos).” Chúa Cha đã sai Đức Giê-su đến thế gian, và khi hoàn thành sứ vụ, Đức Giê-su sai các môn đệ vào thế gian để tiếp tục sứ vụ rao giảng và làm chứng về Người. Nhờ đó mà “thế gian chưa tin” có thể “tin” và “nhận biết” là Chúa Cha đã sai Đức Giê-su đến thế gian (17,21.23).

Các môn đệ, là những người tin, có sứ vụ làm cho những người chưa tin nhận ra quà tặng của Thiên Chúa: tin vào Đức Giê-su để có sự sống đời đời. Từ “thế gian” trong kiểu nói “sai họ đến thế gian (eis ton kosmon)” (17,18b) chỉ về những người chưa tin vào Đức Giê-su. Các môn đệ thuộc về “thế gian nhân loại” và được sai đến với “thế gian chưa tin”, nghĩa là khi trở thành người tin, các môn đệ không còn thuộc về “thế gian chưa tin” nữa. Vậy từ “thế gian” ở 17,18b bao gồm những ai trong nhân loại chưa nhận biết Đức Giê-su, nên gọi là “thế gian chưa tin.” Thế gian này là đối tượng sứ vụ của các môn đệ qua mọi thời đại. Trong Tin Mừng, “thế gian chưa tin” bao gồm cả những kẻ chống đối và bách hại Đức Giê-su. Nói chung, “thế gian chưa tin” không có nghĩa xấu; ngược lại, sứ vụ của Đức Giê-su và của các môn đệ là đến với “thế gian chưa tin” này.

Trong thực tế, sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su và của các môn đệ gặp sự chống đối của hai thế lực: (1) Thế lực bóng tối mà Tin Mừng gọi là “Xa-tan (satan)” (13,27), “quỷ (diabolos)” (13,2), “Ác thần (ponêros)” (17,15) và “thủ lãnh của thế gian (arkhôn tou kosmou)” (14,30). Đây là thế lực vô hình, chống lại Thiên Chúa. (2) Thế lực chống đối thứ hai có khuôn mặt người, đó là những ai từ chối tin vào Đức Giê-su. Khi thế gian ghét Đức Giê-su và các môn đệ là họ đang làm công việc của quỷ (8,44a) nên gọi thế gian này là “thế gian thù ghét.”

    3. Thế gian thù ghét

Định nghĩa “thế gian thù ghét” được trình bày qua ba điểm: (1) các nơi trong bản văn nói về thế gian thù ghét; (2) cách gọi “thế gian thù ghét”; (3) thế gian thù ghét trong tương quan với cộng đoàn và độc giả.

(1) Trong Tin Mừng, danh từ “thế gian” (kosmos) còn là chủ từ của động từ “ghét” (miseô). “Thế gian” ghét ba đối tượng: Đức Giê-su (7,7), các môn đệ (15,18; 17,14) và Chúa Cha (15,23-24). Lần đầu tiên trong Tin Mừng, Đức Giê-su cho biết Người bị thế gian ghét, khi nói với anh em của Người ở 7,7: “Thế gian (kosmos) không thể ghét các anh, nhưng Tôi thì nó ghét, vì Tôi làm chứng về nó là các việc của nó thì xấu xa.” Sau khi kết thúc sứ vụ, Đức Giê-su cho các môn đệ biết ở 15,18-19: “18 Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19 Nếu anh em thuộc về thế gian, thế gian đã yêu thích cái gì là của riêng nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, vì điều này, thế gian ghét anh em.” Một trong những lý do thế gian ghét các môn đệ là vì họ đón nhận Đức Giê-su và nghe lời Người. Vì tin vào Đức Giê-su mà các môn đệ bị thế gian bách hại và đương nhiên họ không thuộc về “thế gian thù ghét”. Đức Giê-su nói với Cha của Người ở 17,14: “Con đã ban cho họ (các môn đệ) lời của Cha và thế gian đã ghét họ vì họ không thuộc về thế gian cũng như chính Con không thuộc về thế gian.” Khi thế gian không tin, không đón nhận và ghét Đức Giê-su, nghĩa là thế gian ghét cả Chúa Cha. Đức Giê-su kết tội thế gian này khi nói với các môn đệ ở 15,22-24: “22 Nếu Thầy không đến và nói với họ (thế gian), họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ không thể bào chữa tội của họ được. 23 Ai ghét Thầy cũng ghét Cha của Thầy. 24 Nếu Thầy không làm những việc giữa họ, những điều không một ai khác đã làm, họ đã chẳng có tội. Nhưng nay họ đã thấy và họ ghét cả Thầy lẫn Cha của Thầy.”

(2) X. Léon-Dufour đề nghị phân biệt “thế gian thù ghét” và “thế gian nhân loại” trong đoạn văn 15,18-21 như sau: “Từ ‘thế gian’ ở đây (15,18-21) không nói về nhân loại, cho dù nhân loại này chưa có ‘sự sống đời đời’ nhưng được mời gọi đón nhận. Thế gian trong đoạn văn trên nói đến tất cả những ai từ chối tin vào Đức Giê-su là Đấng mặc khải của Chúa Cha; thế gian ở đây thâu tóm những dữ liệu liên quan đến bóng tối (x. 3,19).” (X. Léon-Dufour, Lecture de l’Évangile selon Jean, t. III, [Parole de Dieu], Paris, Le Seuil, 1993, p. 188-189). Như thế, “thế gian thù ghét” và “thế gian nhân loại” là hai thực tại khác nhau. “Ghét” là một trong những đặc điểm của thế gian này, nên gọi là “thế gian thù ghét.” Tuy nhiên, trong Tin Mừng chỉ xuất hiện động từ “ghét” chứ không có danh từ “thù ghét”. Tin Mừng nhấn mạnh hành động “ghét” (động từ) chứ không phải khái niệm “thù ghét” (danh từ) để trình bày thần học. Nên thế gian này luôn được mời gọi thay đổi hành động “ghét” trở thành hành động “biết” và “tin” (động từ) vào Đức Giê-su.

(3) Trong Tin Mừng, “thế gian thù ghét” là một nhóm nhỏ những người không tin, thù nghịch và chống lại Đức Giê-su. Đó là các nhóm nhân vật: “những người Do Thái,” “những người Pha-ri-sêu,” “các thượng tế.” Họ quyết định giết Đức Giê-su (11,47-54) và tìm cách bắt Người (11,57). Việc tác giả Tin Mừng dùng từ khái quát “thế gian” để nói về những kẻ bách hại Đức Giê-su và các môn đệ cho phép hiểu rằng “thế gian thù ghét” trong Tin Mừng gợi đến những kẻ bách hại cộng đoàn các môn đệ cuối thế kỷ I. Đối với độc giả ngày nay, “thế gian thù ghét” này là hình ảnh của mọi hình thức thù ghét người tin ở mọi nơi, mọi thời. Tuy nhiên, thế gian này được mời gọi tin và nhận biết Đức Giê-su nhờ lời chứng về sự hiệp nhất giữa người tin với nhau (17,20-23).

Kết luận

Năm nghĩa từ “thế gian” cho thấy sự phong phú, tinh tế và độc đáo của thần học Tin Mừng trong cách dùng từ “kosmos” để trình bày năm khẳng định thần học quan trọng:

(1) “Thế gian vũ trụ” xác định nguồn gốc và căn tính Đức Giê-su. Người đã có vinh quang và tình yêu của Chúa Cha trước khi thế gian được tạo thành.

(2) “Thế gian trái đất” là nơi Đức Giê-su được sai đến để thi hành sứ vụ. Người được Cha sai đến thế gian và Người sẽ rời bỏ thế gian mà về với Cha.

(3) “Thế gian nhân loại” là đối tượng tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Cha đã sai Đức Giê-su đến với nhân loại, đến với mọi người và từng người, để ban sự sống đời đời cho người tin.

(4) “Thế gian chưa tin” là tất cả những ai chưa tin vào Đức Giê-su. Người sai các môn đệ đến với thế gian chưa tin để làm họ trở thành người tin.

(5) “Thế gian thù ghét” là những ai đã nghe Đức Giê-su, đã thấy dấu lạ Người làm mà vẫn không tin (15,22-24). Định nghĩa này cũng áp dụng cho những kẻ bách hại cộng đoàn người tin.


Sơ đồ trên cho thấy, nếu không phân biệt các thực tại khác nhau của từ “thế gian” như “thế gian thù ghét”, “thế gian chưa tin” và “thế gian nhân loại” thì có nguy cơ hiểu sai bản văn Tin Mừng. Chẳng hạn, khái quát sự thù ghét của thế gian, như thể hễ “không tin” là “ghét các môn đệ”, là không phù hợp với thần học Tin Mừng. Phân biệt các nghĩa của từ “thế gian” cho phép hiểu rằng các môn đệ thuộc về “thế gian nhân loại”, họ được Đức Giê-su tách ra từ giữa “thế gian chưa tin” để trở thành những người tin. Nên họ không còn thuộc về “thế gian chưa tin” nữa. Các môn đệ được trao sứ vụ đến với “thế gian chưa tin”, trong đó có “thế gian thù ghét”. Thế gian này là một nhóm nhỏ gồm những kẻ thù ghét, chống đối, bách hại Đức Giê-su và các môn đệ.

Hai vòng, thứ tư (thế gian chưa tin) và thứ năm (thế gian thù ghét), biểu thị bằng đường chấm liên tục. Lý do là, con người, với sự tự do của mình, có thể qua lại giữa các vòng tròn ấy. Môn đệ Đức Giê-su có thể từ bỏ niềm tin để thuộc về “thế gian chưa tin”, thậm chí có thể thuộc về “thế gian thù ghét” để bách hại người tin. Trong Tin Mừng, có nhiều môn đệ đã quyết định không làm môn đệ Đức Giê-su nữa (6,66). Ngược lại, những người hiện nay chưa tin, ngay cả ghét Đức Giê-su, nhưng họ có thể trở thành môn đệ Đức Giê-su trong tương lai. Chẳng hạn, Ni-cô-đê-mô, thuộc nhóm Pha-ri-sêu, một thủ lãnh của những người Do Thái (3,1), lại cư xử như môn đệ Đức Giê-su, khi  cùng với ông Giu-se A-ri-ma-thê, ông đã lo tẩm liệm thi hài Đức Giê-su và đặt trong một ngôi mộ mới (19,38-42).

Vậy không nên nghĩ rằng những người hiện nay là môn đệ thì đương nhiên thuộc về Đức Giê-su mãi mãi, và những người thuộc về thế gian thù ghét thì mãi mãi có tội và hư mất. Thật ra, lựa chọn thuộc về ai, thuộc về Thiên Chúa hay thuộc về quỷ, thuộc về thế gian hay thuộc về Đức Giê-su, là vấn đề không ngừng đặt ra cho mọi người (đã tin hay chưa tin). Vì thế, để “là”  môn đệ” và để “làm” môn đệ đích thực của Đức Giê-su, cần liên lỷ lựa chọn thuộc về Thiên Chúa, thuộc về sự thật, thuộc về Đức Giê-su, thuộc về đàn chiên của Người và không ngừng nghe tiếng Người.

Tìm hiểu các nghĩa của từ “thế gian” giúp độc giả hiểu bản văn, nhưng tính dị nghĩa (nhiều khía cạnh, không rõ, không minh nhiên) của từ này trong Tin Mừng vẫn còn đó. Tác giả chỉ dùng một từ “kosmos” (thế gian) để nói về nhiều thực tại khác nhau, nên cần đặt từ này trong mạch văn và uyển chuyển trong cách hiểu từ này./.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét