Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 26 tháng 02 năm 2020.
Nội dung
Dẫn nhập
1.
“Người ở trong”, “kẻ ở ngoài” (4,11)
a)
Bối cảnh đoạn văn 4,10-12
b)
“Những người kia là những kẻ ở ngoài” (4,11b)
2.
“Điểm yếu” của các môn đệ
a)
Không hiểu (4,13)
b)
Nhát đảm, chưa có lòng tin (4,40)
c)
Ngu muội, không hiểu (7,18)
d)
Chai đá, có mắt không thấy, có
tai không nghe (8,18)
3.
Hành trình “đi xuống” của Phê-rô, Tông Đồ trưởng
a)
“Hãy đi sau Thầy, Xa-tan” (8,33)
b)
Quả quyết không chối nhưng lại chối Thầy
4. Môn đệ bị đưa ra “bên ngoài” để
độc giả vào được “bên trong”
Kết luận
Dẫn nhập
Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giê-su kêu gọi các
môn đệ từ những chương đầu tiên (ch. 1–2): Si-môn và An-rê (1,16-18); Gia-cô-bê
và Gio-an (1,19-20); Lê-vi (2,14). Sau đó Người thiết lập Nhóm Mười Hai
(3,13-19) “để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (3,14).
Theo mạch văn, Mc 4,11 đánh dấu bước tiến triển mới. Sau khi Đức Giê-su giảng
dạy đám đông bằng dụ ngôn gieo giống, Người nói với các môn đệ: “Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được ban cho anh
em; nhưng những người kia là những kẻ ở ngoài, thì mọi sự xảy đến trong dụ ngôn” (4,11). Như thế, các môn đệ được Đức Giê-su đưa “vào trong”, các ông
được Đức Giê-su tuyển chọn và huấn luyện để sai đi rao giảng (3,14).
Nhưng độc giả ngạc nhiên vì nhận thấy càng về
cuối Tin Mừng các môn đệ càng không hiểu Đức Giê-su. Người đã trách các môn đệ
“nặng lời”: “ngu muội”, “không hiểu”, “không biết” nhất là các môn đệ là người
“có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” (8,18). Tại sao nhóm nhân vật các
môn đệ lại được trình bày theo chiều hướng “thụt lùi” như vậy? Tại sao Đức
Giê-su lại “nặng lời” với những kẻ được chọn đến thế?
Khi Tin Mừng Mác-cô được viết ra cuối thập
niên 60 (khoảng năm 67–69), Nhóm Mười Hai đã là cột trụ trong Hội Thánh. Cùng
với Phê-rô và Phao-lô, tất cả các Tông Đồ đã xác tín niềm tin vào Đức Giê-su và
ra đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Các ngài đã can đảm làm chứng cho Tin Mừng
và đã trung tín với Đức Giê-su cho đến chết. Vậy, câu chuyện về sự “ngu muội” của
các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô có ý nghĩa gì?
Tin Mừng Mác-cô được viết ra cho cộng đoàn vào
cuối thế kỷ I, qua nhân vật các môn đệ, tác giả gửi đến độc giả một sứ điệp. Phải
chăng sự cứng lòng tin của các môn đệ gợi đến tình trạng cứng lòng tin của cộng
đoàn Mác-cô và của độc giả? Chúng ta cùng tìm hiểu “mặt tối” của nhóm các môn
đệ trong Tin Mừng (cứng lòng, không biết, không hiểu) để may ra độc giả được “sáng
lên” chăng? (tin, biết, hiểu…). Hành trình “tụt dốc” của các môn đệ trong Mác-cô
được phân tích qua 4 mục: (1) “người ở trong”, “kẻ ở ngoài” (4,11); (2) “điểm
yếu” của các môn đệ; (3) hành trình “đi xuống” của Phê-rô, Tông Đồ trưởng; (4) môn đệ bị đưa ra “bên ngoài” để
độc giả vào được “bên trong”.
1. “Người ở trong”, “kẻ ở ngoài” (4,11)
Phân biệt “người ở trong”, “kẻ ở ngoài” được nói đến
ở 4,11, phần sau trình bày hai điểm: (a) bối cảnh đoạn văn 4,10-12 và (b) lời Đức
Giê-su ở 4,11b: “Những người kia là những kẻ ở ngoài.”
a) Bối cảnh đoạn văn 4,10-12
Theo Tin Mừng Mác-cô, kể từ 4,11-12, các môn
đệ là “những người ở trong”. Thực vậy, sau khi Đức Giê-su giảng dạy đám đông
(có các môn đệ hiện diện) dụ ngôn gieo giống (Mc 4,1-9), người thuật chuyện tạm
ngưng thuật lại việc giảng dạy đám đông để cho độc giả biết những gì Đức Giê-su
nói riêng với các môn đệ và những
kẻ ở chung quanh Người (không có đám đông dân chúng). Người
thuật chuyện kể ở Mc 4,10-12: “10 Khi Người ở một mình, những kẻ ở chung quanh Người cùng với Nhóm Mười
Hai, hỏi Người về các dụ ngôn. 11 Người nói với họ: ‘Mầu nhiệm Vương Quốc Thiên
Chúa được ban cho anh em; nhưng những người kia là những kẻ ở ngoài thì mọi sự
xảy đến trong các dụ ngôn, 12 để họ nhìn đi nhìn lại mà không thấy, nghe đi
nghe lại mà không hiểu, kẻo họ trở lại và được tha thứ.’”
Đoạn văn Mc
4,10-12 là phần chuyển tiếp giữa dụ ngôn gieo giống (4,1-9) và áp dụng dụ ngôn (4,10-20).
Đoạn văn 4,10-12 đặt trong khung cảnh Đức Giê-su ở một mình với “những kẻ ở
chung quanh Người cùng với Nhóm Mười Hai” (4,10). Như thế, 4,10-12 ở ngoài
khung cảnh giảng dạy dân chúng bằng dụ ngôn. Đoạn văn chèn vào từ 4,10 kéo dài đến
4,25, trong phần này dân chúng vắng mặt. Việc Đức Giê-su giảng dạy đám đông
bằng dụ ngôn được tiếp nối ở 4,26-32. Trong ch. 4, phần Đức Giê-su giảng dạy dân
chúng gồm ba dụ ngôn: Dụ ngôn gieo giống (4,1-9), dụ ngôn về đất tự sinh hoa
trái (4,26-29) và dụ ngôn hạt cải (4,30-32). Phần chèn vào (4,10-25) nói riêng với
Nhóm Mười Hai và những kẻ ở chung quanh Người gồm ba đoạn văn: áp dụng dụ ngôn
gieo giống (4,10-20), hình ảnh cái đèn (4,21-23) và hình ảnh đấu đong
(4,24-25).
Kiểu “hành văn
chèn vào” này nhằm mục đích minh hoạ cho hoạt động của Đức Giê-su được nói đến trong
phần tóm kết ở ở Mc 4,33-34: “33 Với
nhiều dụ ngôn tương tự, Người nói Lời cho họ theo như họ có thể nghe. 34 Người
không nói với họ nếu không dùng dụ ngôn. Nhưng khi ở riêng, Người giải thích
mọi điều cho các môn đệ của Người.” Như thế, công việc giảng dạy của Đức Giê-su
gồm hai bước: (1) giảng dạy dân chúng bằng dụ ngôn và (2) giải thích cho các
môn đệ các dụ ngôn đó khi ở riêng với các môn đệ. Xem các ví dụ về kiểu hành
văn chèn vào trong bài viết: “Tác
giả đối thoại với độc giả”.
b) “Những người kia là những kẻ ở
ngoài” (4,11b)
Câu hỏi đặt ra:
Đại từ “anh em” (ngôi thứ hai số nhiều) tạm gọi là “những người ở trong” (4,11a)
và những kẻ bản văn gọi là “những người kia là những kẻ ở ngoài” (4,11b) là ai?
Ai là “những người ở trong”? Theo mạch văn, “những kẻ ở chung quanh Người cùng
với Nhóm Mười Hai” thì được ban cho “mầu nhiệm của Vương Quốc Thiên Chúa”, họ là
“những người ở trong”. Còn “những kẻ ở ngoài” là đám đông dân chúng vì “mọi sự
xảy đến trong dụ ngôn”. Đức Giê-su giảng dạy cho “những kẻ ở ngoài” bằng dụ ngôn,
còn “những kẻ ở trong” thì được giải thích dụ ngôn (xem trích dẫn 4,33-34 trên đây).
Điều lạ trong Tin
Mừng Mác-cô là “các môn đệ” là “những người ở trong”, những người được chọn,
được Đức Giê-su huấn luyện cách đặc biệt. Nhưng càng về cuối Tin Mừng, các môn
đệ càng “không hiểu”. Nếu như câu trích dẫn Cựu Ước ở Mc 4,12: “họ nhìn đi nhìn
lại mà không thấy, nghe đi nghe lại mà không hiểu, kẻo họ trở lại và được tha
thứ” áp dụng cho những kẻ ở ngoài thì Đức Giê-su nói điều này với các môn đệ ở
8,18a: “Anh em có mắt mà
không thấy, có tai mà không nghe ư?” Tại sao có sự đảo ngược này? Tại sao càng về cuối Tin Mừng, Đức Giê-su càng
trách các môn đệ nặng lời hơn và về điều gì?
2. “Điểm yếu” của các môn đệ
Theo mức độ ngày càng tăng, Đức Giê-su trách các
môn đệ nhiều điều trong bốn điểm sau: (a) không hiểu (4,13); (b) nhát đảm, chưa
có lòng tin (4,40); (c) ngu muội, không hiểu (7,18); (d) lòng chai đá, có mắt không thấy, có tai không nghe (8,17-18).
a) Không hiểu (4,13)
Ngay trong ch. 4,
vừa sau khi Đức Giê-su ban cho các môn đệ mầu nhiệm của Vương Quốc Thiên Chúa
(4,11), Người nói về sự “thiếu hiểu biết” của các ông ở 4,13: “Anh em không
hiểu biết (ouk oidate) dụ ngôn này (dụ ngôn gieo giống), thì làm sao
hiểu được tất cả các dụ ngôn?” Tiếp theo lời này là phần áp dụng dụ ngôn (4,14-20).
Các môn đệ cần tiếp tục lắng nghe và học hỏi để hiểu giáo huấn của Đức Giê-su.
Hơn nữa dụ ngôn gieo giống là chìa khoá để hiểu ý nghĩa tất cả các dụ ngôn khác.
Câu hỏi tu từ mà Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 4,13 cũng là lời mời gọi độc giả
tìm hiểu kỹ dụ ngôn gieo giống.
b) Nhát đảm, chưa có lòng tin (4,40)
Đến cuối ch. 4,
sự không hiểu biết trở nên trầm trọng hơn. Câu chuyện xảy ra khi Đức Giê-su và
các môn đệ đi thuyền ngang qua Biển Hồ. Người thuật chuyện kể ở Mc 4,37-40: “37
Và xảy đến một trận cuồng phong lớn, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đã bị
đầy nước. 38 Còn Người [Đức Giê-su], Người đang ở đàng lái, dựa vào
chiếc gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói với Người: ‘Thưa Thầy, Thầy
không lo là chúng ta chết sao?’ 39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và Người nói
với biển: ‘Im đi. Câm đi.’ Gió liền ngưng và biển hoàn toàn yên lặng. 40
Và Người bảo các ông: ‘Tại sao anh em nhát đảm (deiloi)? Anh em chưa có lòng tin sao (oupô ekhete pistin)?’”
Thật ra, trong hoàn cảnh nguy kịch như trên,
phản ứng của các môn đệ là bình thường và dễ hiểu. Nhiều người đã và đang phản ứng
như thế. Có thể các thành viên trong cộng đoàn Mác-cô và nhiều độc giả cũng đã
và sẽ làm như vậy. Tuy nhiên Đức Giê-su muốn các môn đệ đi xa hơn, can đảm hơn và
tin mạnh mẽ hơn.
Đối với độc giả có thể ghi nhận ba điều thú vị
trong câu chuyện: (1) Trước hết, thấy gần gũi và đồng cảm với cách phản ứng của
các môn đệ, có thể độc giả cũng sẽ kêu cứu như thế. (2) Thứ đến, bản văn đề cao
nhân vật chính là Đức Giê-su với những nét tương phản mạnh mẽ: Ai có thể ngủ được
trên thuyền giữa “trận cuồng
phong lớn, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đã bị đầy nước”? (4,37) Chỉ có Người có quyền ra lệnh cho biển: “Im đi, câm đi” và “gió liền ngưng và biển
hoàn toàn yên lặng” (4,39) mới ngủ được trong lúc đó. Vậy, trận cuồng phong
ru Đức Giê-su ngủ thì lại là nguy tử đối với các môn đệ. Đáng lẽ thấy Đức
Giê-su ngủ đã nhận ra được uy quyền của Người, chỉ cần lo tát nước khỏi thuyền!
(3) Cuối cùng, câu chuyện muốn nói với độc giả rằng: có Đức Giê-su ở với mình thì
dù trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh cũng không có gì phải hoảng hốt, sợ hãi, kêu
la. Nếu không sẽ bị Đức Giê-su mắng: “Tại sao anh em nhát đảm? Anh em chưa có lòng tin sao?” Trình thuật mời gọi độc giả phản ứng khác
với các môn đệ. Để không bị quở trách như
trên cần có hai điều: không “nhát đảm” và có “lòng tin” (4,40).
c) Ngu muội, không hiểu (7,18)
Đến ch. 7, Đức Giê-su dạy đám đông và các môn đệ dụ ngôn liên
quan đến điều làm cho con người ra ô uế, Người nói ở 7,15a: “Không
có cái gì từ bên ngoài con người vào trong người ấy mà có thể làm ô uế người ấy.” Người thuật chuyện kể tiếp ở 7,17-19: “17 Khi
Người rời khỏi đám đông về nhà, các môn đệ của Người hỏi Người về dụ ngôn ấy. 18
Người nói với các ông: ‘Phần anh em, anh em cũng ngu muội (asunetoi) như thế
sao? Anh em không hiểu (ou noeite) rằng: Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào
trong con người, thì không thể làm ô uế người ấy, 19 bởi vì nó không đi vào
trong lòng người ấy, nhưng vào bụng và được thải ra ngoài? Vậy,
mọi thức ăn đều thanh sạch.”
Đức Giê-su giải
thích tiếp ở 7,20-23: “20 Cái gì từ trong con người xuất ra,
cái đó làm ô uế con người. 21 Vì từ bên trong, từ lòng con người những
ý định xấu xuất ra như: Tà dâm, trộm cắp, giết người, 22 ngoại tình, tham lam,
độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phạm thượng, kiêu ngạo, ngông cuồng. 23 Tất
cả những điều xấu xa đó xuất ra từ bên trong và làm ô uế con người.”
Đối với độc giả, giáo huấn của Đức Giê-su là rõ
ràng và dễ hiểu. Người nói về những điều làm cho con người ra ô uế về tâm linh.
Còn các môn đệ để lại hiểu điều làm cho con người ra ô uế theo lề luật: cái gì được
ăn, thức ăn nào không được ăn v.v… Bản văn mời gọi độc giả thanh tẩy lòng mình
khỏi những điều xấu xa liệt kê ở 7,21-22. Các môn đệ bị la mắng là “ngu muội” và
“không hiểu biết” để độc giả không rơi vào hoàn cảnh của các ông.
d) Chai đá, có mắt không thấy, có
tai không nghe (8,18)
Sang ch. 8, trong
trình thuật về “bánh” và “men Hê-rô-đê”, Đức Giê-su đã trách các môn đệ nặng
lời. Người thuật chuyện kể ở Mc 8,14-21: “14 Và các ông quên đem bánh theo; chỉ
có một cái bánh với các ông trên thuyền. 15 Người căn dặn các ông rằng: ‘Anh em
hãy chú ý, hãy coi chừng men của những người Pha-ri-sêu và men của Hê-rô-đê.’ 16
Các ông bàn tán với nhau là các ông không có nhiều bánh. 17 Biết thế,
Người nói với họ: ‘Sao anh em lại bàn tán là anh em không có nhiều bánh?
Anh em chưa nhận biết cũng chẳng hiểu ư? Sao lòng anh em vẫn còn chai đá thế?
18 Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không nhớ sao,
19 khi Thầy bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người, anh em đã thu lại được bao
nhiêu giỏ đầy mảnh vụn?’ Các ông nói với Người: ‘Mười hai.’ 20 ‘Và với bảy cái
bánh cho bốn ngàn người, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mảnh vụn?’ Các
ông nói [với Người]: ‘Bảy.’ 21 Người nói với các ông: ‘Anh em chưa hiểu ư?’”
Bảy câu hỏi Đức
Giê-su dành cho các môn đệ (8,17.18.19.20.21) làm lộ ra “khả năng hiểu biết” của
các môn đệ. Trong bảy câu hỏi, các môn đệ chỉ vắn tắt trả lời hai câu bằng những
con số: “Mười hai” (8,19) và “Bảy” (8,20). Lối hành văn ngắn gọn và sinh động
của Tin Mừng Mác-cô làm nổi bật tình trạng của các môn đệ và giáo huấn của Đức
Giê-su.
Đức Giê-su trách
các môn đệ bằng bốn câu hỏi: (1) Anh em chưa nhận biết cũng chẳng hiểu ư?
(8,17b). (2) Sao lòng anh em vẫn còn chai đá thế? (8,17c). (3) Anh em có mắt mà
không thấy, có tai mà không nghe ư? (8,18a). (4) Anh em chưa hiểu ư? (8,21). Điều
lạ trong bản văn là không có lời giải thích nào của các môn đệ, như thể người
thuật chuyện để độc giả tự trả lời.
Đặc biệt, câu
trách nặng lời: “Có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” (8,18) làm cho
các môn đệ trở thành “người ở ngoài”. Đức Giê-su đã nói với các ông ở 4,11-12:
“11 Mầu nhiệm Vương Quốc Thiên Chúa được ban cho anh em; nhưng những người kia
là những kẻ ở ngoài thì mọi sự xảy đến trong các dụ ngôn, 12 để họ nhìn đi nhìn
lại mà không thấy, nghe đi nghe lại mà không hiểu, kẻo họ trở lại và được tha
thứ.” Nét châm biếm và hài hước là nhóm nhân vật “các môn đệ” bị đảo ngược từ
“bên trong” ra “bên ngoài”. Đầu Tin Mừng, các môn đệ được Đức Giê-su lựa chọn, đưa
“vào trong”, “để các ông ở với Đức Giê-su và để Người sai các ông đi rao giảng”
(3,14). Điều phân biệt “người ở trong” với “những kẻ ở ngoài” là “nhìn đi nhìn
lại mà không thấy, nghe đi nghe lại mà không hiểu” (4,12). Nhưng đến ch. 8, thì
các môn đệ lại bị trách giống như “những kẻ ở ngoài”: “có mắt mà không thấy, có
tai mà không nghe” (8,18). Điều trớ trêu là sau quá trình huấn luyện dài 4
chương (Mc 4–8), các môn đệ là “người ở trong” đã trở thành “người ở ngoài” vì
“không nghe”, “không thấy”, “không hiểu”, “ngu muội”, “nhát đảm” và “cứng
lòng”.
Tin Mừng Mác-cô vẽ
nên bức tranh tương phản mạnh mẽ và độc đáo về nhóm nhân vật “các môn đệ”.
Trước khi bước qua phần tìm hiểu ý nghĩa bức tranh này, hãy quan sát khuôn mẫu sự
đảo ngược, từ “biết” thành “không biết”, nơi môn đệ Phê-rô, người đứng đầu Nhóm
Mười Hai.
3. Hành trình “đi xuống” của Phê-rô, Tông
Đồ trưởng
Nếu nhìn từ góc
độ “điểm yếu”, hành trình của nhân vật Phê-rô trong Tin Mừng Mác-cô là hành
trình “đi xuống”, đi từ “trong” ra “ngoài”, đi từ “biết” đến “không biết”, với
những nét tương phản mạnh mẽ. Điều này được minh hoạ qua hai sự kiện: (a) Phê-rô bị Đức
Giê-su gọi là Xa-tan (8,33); (b) ông quả quyết không chối Thầy nhưng lại
chối.
a) “Hãy đi sau Thầy, Xa-tan” (8,33)
Phê-rô được Đức
Giê-su kêu gọi từ ch. 1 và được nghe Đức Giê-su giảng dạy đến ch. 8. Khi Phê-rô
vừa tuyên xưng ở 8,29: “Thầy là Đấng Ki-tô” thì ngay sau đó lại bị Đức Giê-su
quở trách ở 8,33: “Hãy đi sau Thầy, Xa-tan, vì anh không suy nghĩ theo suy
nghĩ của Thiên Chúa, nhưng theo suy nghĩ của loài người.” Sau khi
nghe Đức Giê-su báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh (8,31), Phê-rô phản
ứng bằng cách “kéo Người ra và bắt đầu trách Người” (8,32). Hành động này cho
thấy ông hiểu không đúng tư cách Mê-si-a
(Ki-tô) của Đức Giê-su. Phê-rô bị quở trách nặng nề vì ông là Tông Đồ trưởng mà
đang làm công việc của Xa-tan và bị đồng hoá với Xa-tan, kẻ chống lại Thiên
Chúa.
b) Quả quyết không chối nhưng lại chối
Thầy
Điểm yếu thứ hai
của Phê-rô là khẳng định không bỏ Thầy, nhưng lại chối Thầy. Phê-rô quả quyết với
Đức Giê-su trước các môn đệ khác ở 14,29: “Dù tất cả sẽ vấp ngã, nhưng con thì
không.” Nhưng Đức Giê-su báo cho ông biết trước: “A-men, Thầy nói cho anh: Hôm
nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, chính anh, anh đã chối Thầy ba lần”
(14,30). Cứ sự thường, khi được báo trước thì sẽ tránh không làm, nghĩa là không
chối, nhưng Phê-rô lại chối ba lần đúng như lời Đức Giê-su đã báo trước
(14,66-72). Lối hành văn này nhấn mạnh sự yếu đuối của Phê-rô, đã được báo trước
nhưng vì quá “nhát đảm” (từ Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 4,40) nên đã chối
Thầy. Không phải chối 1 lần mà 3 lần nên không thể nói “lỡ chối” mà là cố tình chối.
Nếu muốn liệt kê
hết các điểm yếu của các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô thì vẫn còn những chi
tiết cho thấy các ông “chưa biết”, “chưa hiểu” rõ về Đức Giê-su. Điều quan trọng
hơn cần tìm hiểu là điểm yếu của các môn đệ trong trình thuật có ý nghĩa gì cho
độc giả.
4. Môn đệ bị đưa ra “bên ngoài” để
độc giả vào được “bên trong”
Qua những “điểm
yếu” trên của nhóm “các môn đệ”, độc giả đừng vội chê các ông và tự hỏi: Tại
sao các môn đệ lại chậm hiểu và cứng lòng tin như thế? Thực ra, khi trình bày
các môn đệ từ tình trạng “ở trong” bị đưa “ra ngoài”, từ “biết Đức Giê-su” trở
thành “không biết”, “không hiểu”, và Phê-rô cố ý chối Thầy, người thuật chuyện muốn nhắn gửi độc giả hai điều quan trọng:
1) Qua hành trình
“đi xuống” của các môn đệ, độc giả nhận ra rằng: không phải môn đệ Đức Giê-su
là đương nhiên hiểu được Người. Vậy đừng nghĩ rằng độc giả đã hiểu Đức Giê-su
rồi, không cần tìm hiểu hay học hỏi gì thêm nữa. Các môn đệ sống với Đức Giê-su,
được Người giáo huấn, mà chưa hiểu đúng về Người, thì độc giả cần học hỏi suốt
cả đời để hiểu đúng về Đức Giê-su và về giáo huấn của Người. Nếu nghĩ rằng đã
biết, đã hiểu Đức Giê-su là rơi vào tình trạng như các môn đệ trong Tin Mừng.
Như thế, sự không hiểu biết của các môn đệ vừa là lời cảnh báo độc giả, vừa là
lời mời gọi không ngừng học hỏi và suy gẫm lời Đức Giê-su.
2) Con người và
căn tính Đức Giê-su là một huyền nhiệm. Những điều các môn đệ đã hiểu lầm, hiểu
sai là để độc giả tránh và không hiểu sai như thế, không suy nghĩ và phản ứng như
các môn đệ để không bị Đức Giê-su quở trách. Nhờ các môn đệ không hiểu, độc giả
có những lời giải thích của Đức Giê-su. Những gì Người giải thích cho các môn
đệ cũng là lời giải thích cho độc giả để độc giả hiểu đúng giáo huấn của Người.
Vậy, các môn đệ “đi xuống” để độc giả có cơ may “đi lên”, nghĩa là “biết” đúng về
Đức Giê-su và “hiểu” đúng giáo huấn của Người.
Cách trình bày
độc đáo của Tin Mừng về nhân vật các môn đệ là “người ở trong” (insider)
trở thành “người ở ngoài” (outsider) để độc giả biết cách trở thành
“người ở trong”. Nói cách khác, “điểm yếu” của các môn đệ trở thành “điểm mạnh”
của độc giả, vì nhờ đó độc giả có thể hiểu lời Đức Giê-su và trở thành môn đệ thực
sự của Người. Độc giả được mời gọi làm “môn đệ”, “ở với Đức Giê-su” và được
“Người sai đi rao giảng” (3,14). Có thể minh hoạ tiến trình “ở trong” và “ở
ngoài” của các môn đệ và của độc giả theo sơ đồ sau:
Kiểu hành văn trên nhắm đến độc giả. Khi bắt đầu đọc Tin Mừng độc giả là
“người ở ngoài” vì chưa biết Đức Giê-su, nhưng nhờ nhân vật các môn đệ không
biết, không hiểu mà độc giả có cơ may biết đúng về
Đức Giê-su và trở thành môn đệ của Người, nghĩa là trở thành “người ở trong”.
Kết
luận
Phân tích “điểm
yếu” của các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô không phải để đánh giá thấp sự hiểu
biết của các môn đệ. Ngược lại các môn đệ Đức Giê-su, nhất là Nhóm Mười Hai, đã
sống trọn vẹn niềm tin vào Đức Giê-su, đã can đảm làm chứng cho Người đến hy
sinh mạng sống mình. Chính các Tông Đồ đã đặt nền tảng cho Hội Thánh tiên khởi.
Lòng tin của các thế hệ tiếp theo dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Tuy vậy cách
trình bày độc đáo về nhân vật các môn đệ trong Tin Mừng nói với độc giả nhiều điều
quan trọng:
Đừng bao giờ nghĩ
là đã biết Đức Giê-su, cần không ngừng học hỏi để biết đúng và hiểu đúng lời Người.
Các môn đệ “không hiểu” dụ ngôn (4,13) để độc giả có thể “hiểu dụ ngôn”. Các
môn đệ “nhát đảm, chưa có lòng tin” (4,40), để độc giả đừng sợ hãi và hãy tin. Các
môn đệ “ngu muội” và “chưa thấu hiểu” (7,18), để độc giả có thể bớt ngu muội và
thấu hiểu lời Đức Giê-su (7,18). Lòng các môn đệ còn “chai đá” (7,17), để lòng
độc giả đừng chai đá. Các môn đệ “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe”
(8,18), để độc giả thực sự thấy Đức Giê-su và nghe giáo huấn của Người. Phê-rô
trở thành Xa-tan (8,33), để độc giả đừng là Xa-tan mà hãy là môn đệ thực sự của
Đức Giê-su. Phê-rô chối Thầy (14,68), để độc giả đừng chối dù bị bắt
bớ và gian khổ vì Người.
Với những gợi ý
trên, việc các môn đệ “đi xuống”, “đi ra ngoài” trong Tin Mừng Mác-cô, đáng để
độc giả suy gẫm để “đi lên” và “đi vào trong”. Cách trình bày nhóm nhân vật
“các môn đệ” như trên là độc đáo, thú vị và có ý nghĩa./.
Một bài học rất sâu sắc để chính bản thân mình đừng bị rơi vào tình cảnh là "outsider" khi ngỡ tưởng đang là " insider"... do sự " ngu muội", tự phụ của chính mình! Cám ơn Tác Giả từ những gì nhận được hôm nay nhé! Teresavothuong.
Trả lờiXóaĐúng là cuộc sống tuy có nhiều nghịch lý và có nhiều điều xảy ra không như chúng ta tưởng, bởi đa số chúng ta không đánh vần hết chữ “ngờ”, nhưng điều kỳ diệu hơn lại là: mọi sự đều hữu ích với những kẻ yêu mến Thiên Chúa. Nhiều người trong cuộc đời đã trở thành vĩ nhân, đại thánh cũng nhờ kinh qua những bài học thăng trầm của bao thế hệ. Người như thế hẳn là kẻ khôn ngoan đã biết lợi dụng cái cũ, cái mới mà làm nên cái đẹp cho mình và cho đời.
Trả lờiXóaCám ơn người thuật chuyện các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô thật sinh động và hấp dẫn, vì cái lẩn quẩn “vào-ra” và tưởng chừng như “hơi bị tối trí” của các ngài lại là bài học giúp chúng ta biết tránh những chướng ngại vật và tìm ra con đường gặp gỡ Thầy Giêsu. Bởi chung cuộc thì bằng ân sủng của Thánh Thần, các môn đệ đã sống trọn cuộc vượt qua của mình để trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu.
Như thế, ngẫm nghĩ về những gì mà chúng ta đang đón nhận, chẳng còn ai dám tự phụ huyênh hoang về mình, bởi điều ta có hôm qua, hôm nay lại là điều ta chắt lọc được từ bao thế hệ…
Cám ơn bài diễn giải rất sâu sắc về "điểm yếu" của các môn đệ trong TM Mác-cô và no tròn chữ “TÂM” của một người thầy, đã giúp con xác tín hơn về việc cần phải chuyên cần học hỏi và bén rễ sâu trong LỜI, chấp nhận được uốn nắn bởi LỜI, tựa như cành nho cần được cắt tỉa, để LỜI có thể thực đi vào cuộc sống và nhờ đó mọi hành động của chúng ta được phát sinh từ LỜI.
Con được khuyên là " Trong bất kỳ chuyện gì, chị cứ bám chặt vào Chúa"... Thế là con cứ nghĩ mình đã bám chặt vào Chúa rồi ! Đọc bài này của cha con nhận ra : con chỉ tưởng là con đang "bám chặt vào Chúa" thôi.
Trả lờiXóaThật là một lời cảnh tỉnh đúng lúc cho con.
Xin cám ơn cha.
Thưa Giáo sư, bài chia sẻ đã giúp cho mọi người thấy được Tin Mừng Macco rất gần gũi, dễ hiểu và đã trở thành những điểm rmạnh đối với người đọc. Nhưng ở phần hành trình đi xuống của Tông đồ Phero, Phero chỉ là con người bình thường và yếu đuối như bao con người khác nên ông có thể quên lời báo trước của Đức Giesu, sao có thể coi lời cảnh báo của Đức Giesu không có tác dụng???????
Trả lờiXóaLời Đức Giê-su báo trước Phê-rô sẽ chối Thầy, lẽ ra được báo trước thì tránh được, nhưng vẫn cứ chối. Vì thế, phản ứng của Phê-rô là biểu tượng cho sự yếu đuối của con người.
Trả lờiXóaTuy nhiên đứng về phía độc giả, độc giả có thể xem lời báo trước của Đức Giê-su không có tác dụng: vì báo trước mà vẫn cứ chối. Cách kể chuyện như thế, vừa là lời cảnh báo cho độc giả, vừa là lời mời gọi độc giả hãy can đảm làm chứng cho Đức Giê-su và không chối Người như Phê-rô đã làm.
Nếu giả như độc giả vì yếu đuối mà chối Đức Giê-su thì cũng hãy làm như Phê-rô: Hối cải và can đảm theo Thầy, sống và chết vì Thầy (Ga 21,18-19).