Núi Xi-nai và Tu viện Thánh Ca-ta-ri-na
Trong các bài viết và sách báo Ki-tô giáo,
chúng ta thường gặp các từ “giới răn”, “mười giới răn”, “giới răn trọng nhất”, “giới
răn mến Chúa yêu người”, “giới răn mới” (tìm từ “giới răn” trên web). Những
kiểu nói này chỉ về “mười điều răn” trong Cựu Ước (Xh 20,1-17 // Đnl 5,6-21), “điều
răn yêu thương” trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 12,28-34 // Mt 22,36-40 // Lc
10,25-28) và “điều răn mới” trong Tin Mừng Gio-an (Ga 13,34; 15,12). Bài viết
này quan sát cách dùng hai từ “giới” và “răn” trong chữ Hán và chữ Nôm, cũng
như các bản dịch Kinh Thánh về đề tài này, từ đó đề nghị dùng từ “điều răn”, từ
này phù hợp hơn khi bàn về Kinh Thánh.
Thiều Chửu, Hán–Việt tự điển, 2009, tr.
1048-1049, liệt kệ 18 chữ Hán đọc là “giới”; trong đó có hai từ liên quan đến
bài viết: 戒 và 誡 (phồn thể 誡,giản thể
诫).
Hai từ 戒 và 誡 (đọc
là “giới”) đều có bộ qua 戈 (binh khí) và bộ củng 廾(chắp tay) với ý nghĩa
hai tay nắm vững vũ khí để chiến đấu trên con đường tu luyện bằng việc giữ điều
răn. Từ 誡 (giới) có thêm bộ ngôn 言 (lời nói), diễn tả những lời răn dạy; chẳng
hạn, danh sách mười điều răn trong Cựu Ước chữ Hán là 十誡 (thập giới), viết đầy đủ 十 條 誡 命 (thập điều giới mệnh), chữ Nôm là 辻 調 噒 (Mười điều răn). “Điều răn mới” trong Tin Mừng
Gio-an (Ga 13,34), chữ Hán là 新 命 令 (tân mệnh lệnh)
hay 新 誡 令 (tân giới mệnh); chữ Nôm là 調 噒 貝 (điều răn mới).
Theo Thiều Chửu, Hán–Việt Tự Điển, chữ 戒 (giới)
có năm nghĩa: (1) răn, như “khuyến giới”; (2) phòng
bị, như “dư hữu giới tâm”; (3) trai giới, nghĩa là trước khi cúng giỗ ăn chay
tắm sạch để làm lễ cho kính; (4) lấy làm răn, như “giới tửu”; “ngũ giới” của
Phật giáo là năm điều không nên làm; (5) cõi, như từ 界 (giới hạn, hạ
giới). Chữ 誡 (giới) có ba nghĩa (1)
bài răn bảo, như “giới tử thư” (thơ răn bảo con); (2) trừng giới (dùng hình
phạt nhẹ cho biết sợ); (3) sai, bảo.
Chữ Nôm 調 噒 (điều
răn) tương đương với các chữ Hán là 命 令 (mệnh
lệnh), 誡 令 (giới mệnh). Chữ Hán 戒 (giới) được dùng trong chữ Nôm 戒 (giới)
với hai nghĩa: (1) “Điều cấm kỵ”, “kiêng cữ”; (2) “che
dấu”, “che đỡ” (x. Nguyễn Quang Hồng, Tự Điển Chữ
Nôm Dẫn Giải, 2021).
Trong hai chữ Hán 戒 và 誡 (giới) đã có nghĩa “răn” (khuyên răn, răn
bảo), nếu dùng từ “giới răn” (誡 噒) trong tiếng Việt
thì có nghĩa “răn răn”. Đây là cách cấu tạo từ ghép trong tiếng Việt: dùng một
chữ Hán và một chữ Nôm đồng nghĩa; trong đó chữ Nôm giải thích ý nghĩa của chữ
Hán, chẳng hạn chữ Nôm “hiếu thảo” (孝 討) gồm từ Hán
孝
có nghĩa “hết lòng phụng dưỡng cha mẹ”, đứng trước chữ Nôm
討
có nghĩa “lòng thành”, “hiếu thuận”. Chữ Nôm 討 (thảo) giải thích chữ Hán 孝 (hiếu) làm thành cụm từ tiếng Việt “hiếu thảo”. Cách
dùng tương tự trong tiếng Việt như “băng giá”, “tiễn đưa”, “kỳ lạ”, “kính nể”,
v.v....
Trong Cựu Ước, Xh 24,12 viết: “ĐỨC CHÚA phán
với ông Mô-sê: ‘Hãy lên núi (núi Xi-nai, Xh 19,11) với Ta và ở lại đó; Ta
sẽ ban cho ngươi những bia đá: luật và mệnh lệnh (BHS wǝhammiṣǝwāh, LXX kai tas entolas) Ta đã viết ra để
dạy dỗ chúng (dân Ít-ra-en).” Trong câu này danh từ Híp-ri “miṣǝwāh” (mệnh lệnh, commandment), trong bản Hy-lạp LXX là danh
từ “hê entolê” (mệnh lệnh, điều răn) ở đối cách, số nhiều “tas
entolas”. “Điều răn mới” trong Tin Mừng Gio-an (Ga 13,34) có tiếng
Hy-lạp là “entolê kainê”.
Các bản dịch Kinh Thánh thường dùng từ “điều
răn” ở Ga 13,34; 14,15; 15,12. Bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt đầu tiên của Cố
Chính Linh (Albertus Schlicklin) dùng từ “điều răn” trong Quyển IV: Sấm truyền mới (1916). Cố
Chính Linh dịch ba câu Đức Giê-su nói với các môn đệ như sau: Ga 13,34: “Tao
truyền cho bay một điều răn mới, là bay hãy yêu thương nhau; tao đã yêu thương
bay thế nào thì bay cũng hãy thương yêu nhau thế ấy”; Ga 14,15: “Nếu bay kính mến tao, thì bay hãy
vâng giữ các điều răn tao”; và Ga 15,12: “Này là điều răn tao ban để bay thương
yêu nhau như tao đã thương yêu bay vậy.” Năm 1926, cha Chính An (Fr. Marcus Gispert) xuất bản cuốn Bốn
quyển sách Phúc-Âm Đức Chúa Giêsu Kirixitô, cũng dùng từ “điều răn” trong
các câu trên. Bản dịch Kinh Thánh của cha Nguyễn Thế Thuấn
dịch “điều răn mới” (Ga 13,34) và “các lịnh truyền” (Ga 14,15), “lịnh
truyền” (Ga 15,12). Bản dịch của Nhóm CGKPV dùng từ “điều răn” trong ba câu
này.
Từ những quan sát trên có thể đưa ra ba nhận
định về cách dùng từ “điều răn” và “giới răn”:
-1. Cách dùng tiếng Việt bằng cách ghép từ “Hán
+ Nôm”, trong đó chữ Nôm giải thích chữ Hán như từ “giới răn”, chỉ diễn tả ý “khuyên
răn”. Từ “điều răn”, chữ Nôm 調 噒, vừa không dùng chữ
Hán, vừa phù hợp hơn với Kinh Thánh, chữ Nôm 調 (điều) chỉ từng khoảng mục của “lệnh truyền”.
-2. Theo văn phạm tiếng Việt, có thể dùng từ
“giới răn” (Hán + Nôm) theo nghĩa chữ Nôm 噒
(răn) giải thích chữ Hán 戒 hay 誡 (giới). Tuy nhiên, chữ Nôm dùng cũng từ 戒 (giới) và có nghĩa “cấm kỵ”; chẳng hạn 五 戒 (ngũ giới) trong Phật giáo là năm điều cấm: sát sinh, trộp cắp, tà dâm,
nói dối, uống rượu. Vì thế từ “giới răn” có thể hiểu là điều cấm, không nên
làm. Trong Kinh Thánh, từ “điều răn” đồng nghĩa với “lệnh truyền” bao gồm điều phải
làm và không được làm.
-3. Trong Tự Điển Công Giáo của Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam (2016), có các mục từ “Mệnh lệnh”, “Điều răn mới”, “Mười
điều răn”, không có mục từ “Giới răn”. Từ “giới răn” chỉ được nhắc đến trong
mục từ “Mệnh lệnh”: “Mệnh lệnh còn gọi là điều răn hay giới răn, là chỉ thị của
Thiên Chúa hay Hội Thánh truyền cho tín hữu phải tuân giữ” (tr. 583).
Tóm lại, khi bàn về lệnh truyền của ĐỨC CHÚA trong Cựu Ước và giáo huấn của Đức Giê-su trong Tân Ước thì từ “điều răn” vừa dễ hiểu trong tiếng Việt, vừa phù hợp với văn chương Kinh Thánh.
14/11/2024. Giu-se Lê Minh Thông, OP.
https://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2024/11/ieu-ran-hay-gioi-ran.html
Từ viết tắt
BHS: Biblia Hebraica Stuttgartensia, Kinh Thánh tiếng Híp-ri. Elliger, K.; Rudolph, W., (eds), Biblia Hebraica Stuttgartensia, (Hebrew
Bible, Masoretic Text), Fourth Corrected Edition, Stuttgart 1990.
LXX: Kinh Thánh tiếng Hy-lạp, còn gọi là bản 70 (LXX). Rahlfs, A.,
(ed.), Septuaginta, (Old Greek Jewish
Scriptures), Deutsche Bibelgesellschaft, (1935), 1979.
Thư mục:
Gispert, Marcus, (cha Chính An), Bốn quyển sách
Phúc-Âm Đức Chúa Giêsu Kirixitô, (dịch và chú giải, song ngữ
La-tinh–Annam), Phú Nhai Đường, 1926, Toà Giám mục Bùi Chu in lại, Hà Hội, Nxb.
Tôn Giáo, 2014.
Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam, Từ điển Công Giáo, Hà Nội, Nxb. Tôn
giáo, 2016, 1278 tr.
Lê Đình Khẩn, Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt, Tp. Hồ Chí Minh, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2002.
Nguyễn
Quang Hồng (biên soạn), Tự Điển Chữ Nôm Dẫn Giải, (tái bản, theo
bản in năm 2014, có sửa chữa và bổ sung), tập 1 (A-M), tập 2 (N-Y), Hà
Nội, Nxb. Khoa Học Xã hội, 2021, 2418 tr.
Schlicklin, Albertus, (cố Chính Linh), Kinh
Thánh, cứ bản Vulgata, Quyển IV, Sấm Truyền Mới,
(dịch ra tiếng Annam và thích nghĩa, song ngữ Annam – La-tinh), Hồng Kông,
Imprimerie de la Société des Missions-Étrangères, 1916.
Thiều Chửu, Hán–Việt Tự Điển, Hà
Nội, Nxb. Văn Hoá, 2009, 1286 tr.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét