03/03/2020

Mc 12,38–13,2. Kinh sư, bà goá, Đền Thờ



Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 03 tháng 03 năm 2020.


Nội dung

Dẫn nhập
I. Bản văn, bối cảnh, cấu trúc Mc 12,38–13,2
    1. Bản văn và chú thích
    2. Bối cảnh
    3. Phân đoạn
    4. Cấu trúc
II. Phân tích một số đề tài
    1. Tố cáo các kinh sư
        a) “Nuốt hết nhà cửa của các bà goá” (12,40a)
        b) “Làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40b)
    2. Ý nghĩa việc dâng cúng của bà goá (12,44)
        a) “Gọi các môn đệ lại” (12,43)
        b) Tố cáo các kinh sư qua việc làm của bà góa
        c) Gợi về thân phận của Đức Giê-su
        d) Mời gọi các môn đệ dấn thân đến cùng
    3. Báo trước Đền Thờ sụp đổ (13,1-2)
Kết luận




Dẫn nhập

Đọc thoáng đoạn văn Mc 12,38–13,2, như thể tác giả thuật lại giáo huấn của Đức Giê-su về ba đề tài độc lập: (1) coi chừng các kinh sư giả hình (12,38-40); (2) giáo huấn từ quan sát bà goá nghèo dâng cúng (12,41-44); (3) báo trước Đền Thờ sẽ sụp đổ (13,1-2). Bài viết này đặt ba trình thuật trên trong bối cảnh văn chương Tin Mừng Mác-cô và tìm liên kết về ý nghĩa giữa ba câu chuyện trên. Có thể cách người thuật chuyện kể ba câu chuyện này nhằm làm nổi bật tương quan giữa ba đề tài: “kinh sư”, “bà goá”, “Đền Thờ”. Các kinh sư sống và ứng xử thế nào? Họ thích điều gì và cư xử với các bà goá thế nào? Tại sao bản văn đề cao việc bà goá dâng cúng cho Đền Thờ nhưng sau đó lại loan báo Đền Thờ sẽ sụp đổ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào? Bài viết trả lời những câu hỏi trên qua hai phần: (I) bản văn, bối cảnh, cấu trúc Mc 12,38–13,2; (II) Phân tích một số đề tài.

I. Bản văn, bối cảnh, cấu trúc Mc 12,38–13,2

Để chuẩn bị phân tích bản văn, phần này  quan sát bản văn qua bốn điểm: (1) bản văn và chú thích; (2) bối cảnh; (3) phân đoạn; (4) cấu trúc.

    1. Bản văn và chú thích

Đoạn văn Mc 12,38–13,2 được chia làm ba trình thuật nối tiếp nhau: (1) 12,38-40: hãy coi chừng các kinh sư; (2) 12,41-44: bà goá nghèo và người giàu; (3) 13,1-2: Đức Giê-su tiên báo Đền Thờ bị phá huỷ, (xem Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt).
(1) Mc 12,38-40: “38 Trong lời giảng dạy của mình, Người [Đức Giê-su] nói: ‘Anh em hãy coi chừng các kinh sư thích dạo quanh với áo chùng, thích được chào hỏi nơi công cộng, 39 thích chỗ nhất trong hội đường, và chỗ danh dự trong đám tiệc. 40 Họ nuốt hết nhà cửa của các bà goá và làm bộ cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nặng hơn.’”

Chú thích:
- 12,38: “Anh em hãy coi chừng (blepete)”. Động từ “blepô”  (thấy) theo nghĩa “coi chừng” là kiểu hành văn riêng của Mác-cô.
- 12,38b-39: “thích dạo quanh”, “thích được chào hỏi”, “thích chỗ nhất”, “thích chỗ danh dự”. Bốn động từ diễn tả sở thích của các kinh sư đều gắn liền với nơi công cộng: “đi dạo”, “công trường”, “hội đường” và “đám tiệc”. Câu tiếp theo (12,40) nói đến điều kín đáo hơn: “ngốn cả nhà cửa của các bà goá” và “làm bộ cầu nguyện lâu giờ.”
- 12,40a: “ngốn cả nhà cửa của các bà goá”. Ngôn sứ Ma-la-khi tuyên sấm về Ngày Đức Chúa thăm viếng Đền Thờ ở Ml 3,5: “Ta sẽ tới gần các ngươi mà xét xử; Ta sẽ mau mắn làm chứng chống lại các tên phù thủy, các kẻ ngoại tình, bọn thề gian cũng như quân bóc lột người làm công và cô nhi quả phụ; chống lại kẻ áp bức ngoại kiều cùng những kẻ chẳng kính sợ Ta, – ĐỨC CHÚA các đạo binh phán.”

(2) Mc 12,41-44: “41 Ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng, Người [Đức Giê-su] nhìn xem đám đông bỏ tiền vào thùng tiền dâng cúng ra sao. Nhiều người giàu bỏ nhiều. 42 Một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền kẽm, trị giá một đồng xu. 43 Gọi các môn đệ của Người lại, Người nói với các ông: “A-men, Thầy nói cho anh em: Bà goá nghèo này đã bỏ vào hơn tất cả những người đã bỏ vào thùng tiền dâng cúng. 44 Vì mọi người lấy từ của cải dư thừa của họ mà bỏ vào, nhưng bà này lấy từ sự túng thiếu của mình mà bỏ vào tất cả những gì bà ấy có, tất cả của nuôi thân bà.”

Chú thích:
- 12,41a: “ngồi” (kathizô). Động từ “kathizô” cho thấy Đức Giê-su ở trong tư thế vị thầy dạy. Nơi ngồi được làm rõ: “đối diện với thùng tiền dâng cúng”, nơi người ta bỏ tiền dâng cúng phục vụ Đền Thờ.
- 12,41b: Đức Giê-su “nhìn xem đám đông bỏ tiền vào thùng tiền dâng cúng ra sao”. Nhân vật bà goá trong câu chuyện không lên tiếng, bà cũng không biết chuyện gì đã xảy ra. Câu chuyện tập trung vào nhân vật Đức Giê-su: quan sát và giáo huấn các môn đệ và độc giả.
- 12,41c: “Nhiều người giàu bỏ nhiều”. Hai lần tính từ “nhiều” (polus) cho thấy sự dồi dào. Nhiều người, nhiều của, nhiều tiền để làm nổi bật lên cái “ít” của bà goá.
- 12,42b: “hai đồng tiền kẽm, trị giá một đồng xu”. Tiền kẽm (leptos), đồng xu (kodrantês) là tiền Rô-ma. “Hai đồng tiền kẽm”, được giải thích là “trị giá một đồng xu”, lời giải thích này dành cho độc giả nói tiếng Hy-lạp sử dụng tiền Đế quốc Rô-ma, đồng thời cho biết “đồng tiền kẽm” là nhỏ nhất trong hệ thống tiền tệ thời đó.
- 12,43-44: kiểu nói nhấn mạnh quá mức làm ý nghĩa câu chuyện vượt ra ngoài khung cảnh việc dâng cúng tiền bạc. Hành động của bà goá gợi lên nhiều ý nghĩa quan trọng sẽ phân tích sau.

(3) Mc 13,1-2: “13,1 Khi ra khỏi Đền Thờ, một trong các môn đệ của Người nói với Người: ‘Thưa Thầy, xem kìa, đá lớn thật, kiến trúc vĩ đại thật.’ 2 Đức Giê-su nói với ông ấy: ‘Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, chắc chắn sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào mà không bị phá đổ.’”

    2. Bối cảnh

Mc 1–10 trình bày hoạt động của Đức Giê-su ở vùng Ga-li-lê và phụ cận. Từ ch. 11, Người bắt đầu sứ vụ tại Giê-ru-sa-lem. Khi lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu, còn những kẻ theo Người thì kinh hoàng, sợ hãi (10,32), sau đó Người báo trước cho Nhóm Mười Hai về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người (10,33-34). Theo thần học Tin Mừng Mác-cô, lên Giê-ru-sa-lem cũng có nghĩa là đi chịu chết (10,32-34). “Đi lên” Giê-ru-sa-lem đồng nghĩa với “đi xuống” trong thân phận làm người. Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, bị khinh chê và chết trên thập giá.

Tin Mừng Mác-cô trình bày 4 lần Đức Giê-su và các môn đệ vào thành Giê-ru-sa-lem. Lần thứ 1, vào thành bằng cuộc rước của dân chúng (11,1-11), sau đó về Bê-tha-ni-a. Biến cố khai mạc này cho thấy ý nghĩa cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Như thế, những gì Đức Giê-su thực hiện và rao giảng ở Giê-ru-sa-lem soi sáng và chuẩn bị cho biến cố này. Lần thứ 2 vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (11,15-17), chiều đến Người và các môn đệ ra khỏi thành. Lần thứ 3 (11,27), Đức Giê-su vào thành với nhiều cuộc trao đổi và tranh luận. Lần thứ 4 (14,16-17), lần cuối cùng, Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem để ăn lễ Vượt qua với các môn đệ, trong đêm đó Người bị bắt.

Đoạn văn 12,38–13,2 xảy xa khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ 3 (11,27–13,1). Trong lần này các thượng tế, các kinh sư và các kỳ mục chất vấn Đức Giê-su về quyền của Người (11,27-33). Kế đến, Người nói với họ về dụ ngôn những tá điền sát nhân (12,1-12). Nội dung đoạn văn tiếp theo (12,13-37) là ba cuộc tranh luận và một lời giáo huấn: (1) Tranh luận với mấy người thuộc nhóm Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê về việc nộp thuế cho hoàng đế Xê-da (12,13-17). (2) Tranh luận với những người Xa-đốc về việc kẻ chết sống lại (12,18-27). (3) Tranh luận với một người thuộc nhóm các kinh sư về điều răn đứng hàng đầu (12,28-34). (4) Giáo huấn (12,35-37) về Đấng Ki-tô là Con và là Chúa của Đa-vít. Lời giáo huấn này đặt trong bối cảnh Đức Giê-su “giảng dạy trong Đền Thờ” (12,35). Tiếp theo là ba trình thuật về các kinh sư (12,38-40), về bà góa nghèo dâng cúng (12,41-44) và về Đền Thờ (13,1-2).

Sau đoạn văn 12,38–13,2 là bài giảng cánh chung (13,3-32). Ch. 14 bắt đầu giai đoạn mới. Sau trình thuật xức dầu tại Bê-tha-ni-a (14,3-9), Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ 4 để ăn lễ Vượt qua với các môn đệ (14,12-31), sau đó Người bị bắt (14,43-52). Như thế trình thuật 12,38–13,2 ở cuối sứ vụ của Đức Giê-su, khi Người giảng dạy lần cuối cùng trước đám đông trong Đền Thờ.

    3. Phân đoạn

Đoạn văn 12,38–13,2 kể lại một số tình tiết khi Đức Giê-su và các môn đệ vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ 3. Đoạn văn này mở đầu bằng: “trong lúc giảng dạy” (12,38) tiếp nối 12,35: “Khi Người giảng dạy trong Đền Thờ”, giáo huấn về đề tài mới: “coi chừng các kinh sư” (12,38-40). Câu 12,38 khởi đầu đoạn văn mới với ba trình thuật: trước hết Đức Giê-su nói với đám đông về các kinh sư (12,38-40); sau đó ngồi quan sát người ta bỏ tiền vào thùng dâng cúng cho Đền Thờ (12,41-44); cuối cùng Người ra khỏi Đền Thờ và tiên báo Đền Thờ sẽ sụp đổ (13,1-2).
Mc 13,3 vừa nối kết với 13,1-2 vừa dẫn vào đề tài mới. Người thuật chuyện kể ở 13,3-4: “3 Ngồi trên núi Ô-liu, đối diện với Đền Thờ, các ông Phê-rô, Gia-cô-bê, Gio-an và An-rê hỏi riêng Người [Đức Giê-su]: 4 ‘Xin Thầy nói cho chúng con, bao giờ các điều ấy xảy ra, và có dấu chỉ gì khi sắp hoàn tất tất cả những điều đó?’” (13,3-4). Với câu hỏi này, Đức Giê-su bắt đầu bài giảng cánh chung (13,3-32) và kêu gọi: “Hãy tỉnh thức” (13,33-37). Nói cách khác, việc báo trước Đền Thờ sẽ sụp đổ (13,1-2) vừa kết thúc hai câu chuyện trước đó về kinh sư (12,38-40) và bà goá (12,41-44), vừa nối kết với diễn từ cánh chung (13,3-32).

    4. Cấu trúc

Đoạn văn 12,38–13,2 được cấu trúc với ba câu chuyện:
1) 12,38-40: coi chừng các kinh sư
2) 12,41-44: người giàu và bà goá nghèo bỏ tiền dâng cúng
3) 13,1-2: báo trước Đền Thờ sẽ sụp đổ

Đọc lướt qua ít thấy nối kết giữ ba trình thuật, nhưng khi quan sát kỹ bản văn, năm dấu hiệu văn chương sau cho thấy ba câu chuyện trên tương quan chặt chẽ với nhau:

1) Trình thuật đặt trong bối cảnh Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ 3. Người tranh luận với giới lãnh đạo Do Thái và giảng dạy trong Đền Thờ. Nên nơi hoạt động của Đức Giê-su là Đền Thờ. Cả ba trình thuật đều liên quan đến Đền Thờ. Câu 12,38 mở đầu bằng: “Trong lời giảng dạy (i didakhêi) của mình, Người nói:…” Danh từ “giảng dạy” (didakhê) và tên Đức Giê-su không xuất hiện trong câu này buộc độc giả nối kết với câu 12,35: “Đức Giê-su lên tiếng nói khi giảng dạy trong Đền Thờ: ‘Sao các kinh sư lại nói rằng Đấng Ki-tô là con Đa-vít?’” để biết ai giảng dạy và ở đâu. Câu 12,35 xuất hiện tên gọi “Đức Giê-su”, động từ “giảng dạy” và danh từ “Đền Thờ”. Vì thế giáo huấn của Đức Giê-su về coi chừng các kinh sư (12,38-40) là ở khu vực Đền Thờ.

2) Đề tài “coi chừng các kinh sư”, vừa nối kết với những gì Đức Giê-su đã nói trước đó liên quan đến các “kinh sư” (12,28.32.35.38), vừa nối kết với chuyện bà goá. Đức Giê-su nói về các kinh sư như sau: “Họ ngốn cả nhà cửa của các bà goá và làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40). Danh từ “bà goá” xuất hiện 3 lần (12,40.42.43) trong đoạn văn 12,38–13,2. Trong Tin Mừng Mác-cô, các kinh sư là những người chống đối Đức Giê-su. Những lời tố cáo tương tự ở trong Mát-thêu và Lu-ca (Mt 23,5-7; Lc 11,43) không chỉ liên quan đến các kinh sư mà còn có những người Pha-ri-sêu nữa. Trong Mác-cô, khi nói đến các kinh sư, bản văn nói về giới lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ, vì các kinh sư là những người có uy thế trong dân và là bậc thầy trong việc giải thích Kinh Thánh.

3) Đề tài “giảng dạy” (12,35.38) được đề cao trong đoạn văn 12,38–13,2. Đức Giê-su dạy đám đông và các môn đệ. Trong Tin Mừng Mác-cô, đây là nơi duy nhất Đức Giê-su nói với đám đông về các kinh sư thay vì nói trực tiếp với các kinh sư.

4) Chuyện bà goá liên quan đến chuyện Đền Thờ bị sụp đổ với gợi ý tương phản và châm biếm. Bà goá hy sinh tất cả những gì mình có để dâng vào Đền Thờ, mà Đền Thờ đó sẽ bị sụp đổ. Nghĩa là chấm dứt mọi hình thức tôn giáo gắn liền với Đền Thờ. Cụ thể là việc dâng cúng và cầu nguyện ở Đền Thờ.

5) Ba trình thuật trên nối tiếp nhau trong thời gian: (1) Đức Giê-su giảng dạy dân chúng trong đền thờ (12,38-40); (2) sau đó Người ngồi quan sát người ta bỏ tiền vào thùng tiền dâng cúng (12,41-44); (3) và cuối cùng ra khỏi Đền thờ và báo trước Đền Thờ sẽ bị phá huỷ (13,1-2).

Tóm lại, đoạn văn 12,38–13,2 thống nhất về nơi chốn: Đền Thờ; thống nhất về nội dung: giảng dạy tại Đền Thờ. Thống nhất về thời gian: ba câu chuyện nối tiếp nhau trong lần thứ ba vào thành Giê-ru-sa-lem. Vậy để hiểu ý nghĩa đoạn văn 12,38–13,2 cần phân tích cả ba câu chuyện: kinh sư, bà goá, Đền Thờ.

II. Phân tích một số đề tài

Bài viết nhằm trình bày liên kết giữa ba câu chuyện (các kinh sư – bà goá – Đền Thờ), nên tập trung phân tích ba đề tài: (1) tố cáo các kinh sư về việc “nuốt hết nhà cửa của các bà goá và làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40); (2) ý nghĩa việc dâng cúng của bà goá; (3) cách hiểu về báo trước Đền Thờ sụp đổ.

    1. Tố cáo các kinh sư

Bốn sở thích của các kinh sư mà các môn đệ của Đức Giê-su nên tránh được kể ở 12,38b-39. Câu tiếp theo (12,40) nói đến sai lạc trầm trọng hơn trong hai tương quan: (a) tương quan với con người: “Nuốt hết nhà cửa của các bà goá” (12,40c); (b) tương quan với Thiên Chúa: “Làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40b).

        a) “Nuốt hết nhà cửa của các bà goá” (12,40a)

Một số tác giả tự hỏi vào thời Đức Giê-su, các kinh sư đã làm gì để “ngốn nhà cửa của các bà goá”? (12,40) Những cách hiểu sau đây dựa trên lịch sử và ở ngoài bản văn nên mỗi tác giả đề nghị câu trả lời khác nhau. Chẳng hạn, J. Jeremias cho rằng các kinh sư lợi dụng sự hiếu khách của các bà goá, hoặc là dụ ngọt để các bà goá dâng cúng cho họ (J. Jeremias, Jérusalem au temps de Jésus, (trad.), Paris 1967, p 166). Theo S. Légasse, kinh sư là những chuyên viên về luật, có thể họ viện cớ bảo vệ quyền lợi của các bà goá để lợi dụng các khoản thù lao (S. Légasse, L’évangile de Marc, (Lectio divina Comemtaire 5), vol. 2, 1997, p.767). J. D. M. Derrett lại nghĩ rằng có thể các bà goá đã gửi tiền của cho các kinh sư giữ, và họ đã tìm cách để rút bớt tiền của các bà goá (J. D. M. Derrett, “‘Eating up the Houses of Widows’: Jesus Comment on Lawyers”, NT  14 (1972) 1-9).

Điều chắc là lời Đức Chúa trong Cựu Ước khẳng định không được ức hiếp cô nhi quả phụ. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết ở Gr 7,3-7: “3 ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa của Ít-ra-en phán: Hãy cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này. 4 Đừng ỷ vào lời giả dối sau đây: ‘Đền Thờ của ĐỨC CHÚA! Đền Thờ của ĐỨC CHÚA! Đã có Đền Thờ của ĐỨC CHÚA!’ 5 Nếu các ngươi thật sự cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, nếu các ngươi thật sự đối xử công bình với nhau, 6 không ức hiếp ngoại kiều hay cô nhi quả phụ, nếu các ngươi không đổ máu người vô tội nơi đây, không đi theo các thần ngoại mà chuốc họa vào thân, 7 thì Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này, trong phần đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi đến muôn đời.” Tuy bản văn Mác-cô không nói rõ các kinh sư làm gì để ngốn cả nhà cửa các bà goá, nhưng vế thứ hai soi sáng cho vế thứ nhất: “Họ làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40b).

        b) “Làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40b)

“Làm bộ” chứ không phải “làm thiệt”, không phải là cầu nguyện thật. Chi tiết này cho phép hiểu các kinh sư đã “làm bộ cầu nguyện lâu giờ” để ngốn tài sản các bà goá. Nghĩa là họ dùng vẻ đạo đức bên ngoài để làm cho các bà goá mất tiền mất của, mất nhà, mất cửa. Tương phản giữa “ngốn cả nhà cửa của các bà goá” và “cầu nguyện lâu giờ” trở thành lời tố cáo mạnh mẽ việc làm của các kinh sư. Một đàng, các bà goá đã nghèo lại còn bị các kinh sư tìm cách để chiếm đoạt tài sản. Việc này ngược với điều răn yêu thương của Thiên Chúa. Hơn nữa cầu nguyện là việc thờ phượng. Bằng cách giả bộ, các kinh sư đã không thực sự thờ phượng Thiên Chúa. Ngược lại họ dùng chính việc cầu nguyện để làm cho của cải các bà goá chuyển vào túi riêng của họ. Họ đã dùng Thiên Chúa để trục lợi.

Ở 12,38b-39, Đức Giê-su tố cáo các kinh sư qua những biểu hiện bên ngoài: “38b thích dạo quanh với áo chùng, thích được chào hỏi nơi công cộng, 39 thích chỗ nhất trong hội đường, và chỗ danh dự trong đám tiệc” (12,38b-39).  Trong câu tiếp theo (12,40), Đức Giê-su tố cáo họ qua những ẩn ý không tốt bên trong: “Họ nuốt hết nhà cửa của các bà goá và làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40a.b). Kết luận là họ “sẽ bị kết án nặng hơn” (12,40c). Thái độ các kinh sư ngược với điều Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Nếu ai muốn là người đứng đầu, sẽ là người đứng sau mọi người và là người phục vụ mọi người” (Mc 9,35).
Tóm lại, cách sống của kinh sư trong đoạn văn ngược với tư cách người môn đệ Đức Giê-su. Nói cách khác bản văn giúp độc giả thế nào “là môn đệ” (disciple) và “không là môn đệ” (non-disciple).  

    2. Ý nghĩa việc dâng cúng của bà goá (12,44)

Dựa vào mạch văn, ý nghĩa việc bà goá dâng cúng vào Đền Thờ được trình bày qua bốn điểm: (a) “Gọi các môn đệ lại” (12,43); (b) tố cáo các kinh sư; (c) gợi đến thân phận Đức Giê-su; (d) mời gọi các môn đệ dấn thân đến cùng.

        a) “Gọi các môn đệ lại” (12,43)

Mc 12,43 mở đầu giáo huấn của Đức Giê-su cách long trọng với hai chi tiết đáng chú ý: (1) Đức Giê-su “gọi các môn đệ của Người lại” (12,43a) và công thức: “A-men, Thầy nói cho anh em:...” (12,43b). Trong đoạn văn 12,38–13,2, nhóm nhân vật “các môn đệ” xuất hiện khá đột ngột. Trước đây, các môn đệ đã xuất hiện trong trình thuật “cây vả bị chết khô” (11,14). Sau đó, Đức Giê-su trao đổi với Phê-rô và các môn đệ ở 11,20-26. Từ câu 11,27: “Họ lại vào Giê-ru-sa-lem”. Đại từ “họ” cho biết Đức Giê-su và các môn đệ vào thành Giê-ru-sa-lem. Đây là lần vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ 3. Trong Tin Mừng Mác-cô, tất cả các lần Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem đều có các môn đệ cùng đi. Điều gây chú ý là trước khi nói với các môn đệ, người thuật chuyện dùng kiểu nói: “Gọi các môn đệ lại” (12,43a).

Kiểu nói này xuất hiện 4 lần trong Tin Mừng Mác-cô (8,34; 9,35; 10,42; 12,43). Người thuật chuyện kể ở 8,34: “Người [Đức Giê-su] gọi (proskaleô) đám đông cùng với các môn đệ của Người lại, Người nói với họ: ‘Nếu ai muốn đi theo sau Tôi, hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình và hãy đi theo Tôi’.” Ở 9,35, người thuật chuyện dùng động từ “phôneô” (gọi): “Người [Đức Giê-su] ngồi xuống, gọi (phôneô) Nhóm Mười Hai và nói với họ: ‘Nếu ai muốn là người đứng đầu, sẽ là người đứng sau mọi người và người phục vụ mọi người.’” Đến 10,42-44, Đức Giê-su gọi (proskaleô) các môn đệ lại để dạy các ông phải sống như thế nào: “42 Gọi (proskaleô) các ông [các môn đệ] lại, Đức Giê-su nói với các ông: ‘Anh em biết rằng Những người được coi là thủ lãnh các dân thì thống trị trên họ. Những người làm lớn trong dân thì thực thi quyền hành trên họ. 43 Nhưng giữa anh em thì không như thế, người nào muốn làm lớn trong anh em sẽ là người phục vụ anh em. 44 Người nào muốn là người đứng đầu trong anh em sẽ là đầy tớ mọi người’” (10,42-44). Theo cách dùng trên, cụm từ “gọi các môn đệ lại” ở 12,43a mở đầu giáo huấn quan trọng của Đức Giê-su. Tầm quan trọng của giáo huấn còn được nhấn mạnh qua công thức: “A-men, Thầy bảo anh em:...” (12,43a). Đây là công thức long trọng, đề cao tư cách giảng dạy của Đức Giê-su và mở đầu lời mặc khải cần lưu ý.

        b) Tố cáo các kinh sư qua việc làm của bà góa

Cách bà goá bỏ tiền vào Đền Thờ là lời tố cáo mạnh mẽ giới lãnh đạo tôn giáo thời đó. Có thể độc giả đã hiểu cách đơn giản như sau: việc dâng cúng của bà goá là tấm gương cho các môn đệ noi theo, nhưng noi theo điều gì? Nếu hiểu theo nghĩa: Đức Giê-su khen lòng quảng đại của bà goá và muốn mọi người cũng dâng cúng tiền bạc như bà thì không ổn. Chẳng lẽ Thiên Chúa là Đấng yêu thương và bênh vực cô nhi quả phụ (xem trích dẫn Gr 7,3-7 trên) lại muốn một bà goá dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình sao? Nếu như bà goá đã dâng “tất cả những gì bà ấy có” và “tất cả của nuôi thân” (12,44) thì bà lấy gì để sống? Đọc kỹ lời nhận định của Đức Giê-su giúp hiểu ý nghĩa việc làm của bà goá qua ba điểm sau:

(1) Trước hết là cái “nhiều” của bà goá. “Bà goá nghèo này đã bỏ vào hơn tất cả...” (12,43b). Câu này đề cao tương phản: “ít” mà “nhiều”. Một mình bà goá chỉ bỏ vào một xu mà hơn cả “nhiều người giàu bỏ nhiều” (12,41) vào thùng tiền dâng cúng. Đây là tương phản trên cả hai bình diện: về người, về của. Về người, một mình bà goá nghèo đối lại với nhiều người giàu. Về của, bà goá chỉ bỏ 1 xu, còn những người giàu bỏ nhiều. Những người giàu bỏ bao nhiêu? Bản văn không nói rõ, nhưng từ “nhiều” vừa gợi lên hình ảnh của cải dư thừa, vừa hàm ý số tiền họ bỏ vào nhiều nhưng không quan trọng, không ảnh hưởng gì đến cuộc sống của họ.

(2) Kế đến là cái “ít” của người giàu. Chi tiết “bà này lấy từ sự túng thiếu của mình mà bỏ vào” (21,44b) làm cho cái “nhiều” của người giàu (12,41) trở thành “ít”, vì số nhiều mà họ bỏ vào so với tài sản của họ thì chỉ là dư thừa. Vậy cái “nhiều” của họ làm nổi bật tương phản: “nhiều” nhưng thực sự thì chẳng bao nhiêu, “nhiều” nhưng thực sự là “ít” vì không quan trọng, là phần dư thừa. Ngược lại việc làm của bà goá “ít” về lượng nhưng phẩm chất lại “nhiều”. Một đàng là “lấy từ sự dư thừa”, một đàng là “lấy từ sự túng thiếu”, nghĩa là lấy từ những thứ cần thiết cho bà.

(3) Đặc biệt lời nhấn mạnh trong câu: “Bỏ vào tất cả những gì bà ấy có, tất cả của nuôi thân bà” (12,44c.d). Câu này có hai chi tiết quan trọng. Bà goá nghèo bỏ vào thùng tiền (1) “tất cả những gì bà ấy có”, (2) “tất cả của nuôi thân” (12,44c.d). Danh từ Hy-lạp “bios” (của nuôi thân) còn có nghĩa “sự sống”, “sự hiện hữu” (x. Lc 8,14). Lời giải thích trên vừa nhấn mạnh cái nghèo của bà goá, vừa đề cao giá trị số tiền ít ỏi bà dâng. Giá trị lớn lao này thể hiện qua hai tính từ Hy-lạp (1) “pas” (tất cả): “Tất cả những gì bà ấy có” (12,44c) và (2) “holos” (tất cả, toàn thể): “Tất cả của nuôi thân bà” (12,44d). Nếu như bà goá đã dâng cúng như thế thì sau khi dâng bà ấy lấy gì để sống? Theo nghĩa đen, không thể nói: Đức Giê-su khen ngợi việc làm của bà góa. Ngược lại, dâng cúng như thế là tước đi sự sống của bà, làm cho bà đã nghèo lại càng nghèo hơn, sống cơ cực hơn. Theo mạch văn thì sau khi dâng cúng, bà ấy không còn gì để nuôi thân nữa. Kiểu dâng cúng này không phải là điều Thiên Chúa muốn.

Ba nhận xét trên cho phép độc giả hiểu sự dâng cúng của bà goá như là lời tố cáo các kinh sư. Có thể nói, đây là ví dụ điển hình về cách các kinh sư ngốn nhà cửa và tài sản các bà goá. Sách Xuất Hành cho thấy Thiên Chúa đối xử thế nào với Mẹ goá con côi và người nghèo ở Xh 22,21-26: “21 Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp. 22 Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. 23 Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi… 24 Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. 25 Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. 26 Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.”

Qua việc làm của bà goá, câu chuyện gián tiếp tố cáo hệ thống tôn giáo thời đó đã bóc lột bà goá nghèo. Dâng cúng theo kiểu của bà cho thấy các kinh sư đã làm cho các bà goá hiểu sai việc dâng cúng. Bà goá nghèo thực hành việc dâng cúng mà không để ý đến nhu cầu chính đáng của bản thân. Dâng cúng như thế không làm Thiên Chúa hài lòng, vì Thiên Chúa của kẻ sống, không muốn lấy đi tất cả những gì bà có để nuôi thân. Hơn nữa nhận của dâng cúng như thế là không có lòng thương xót và không biết nâng đỡ người nghèo. G. A. Wright viết: “Giới lãnh đạo tôn giáo đã dạy bà ta và đã động viên các bà goá dâng cúng như bà goá này đã làm, qua câu chuyện này Đức Giê-su tố cáo hệ thống giá trị tôn giáo đã dẫn bà goá tới hành động như thế, Người lên án những kẻ đã tạo ra suy nghĩ và hành động như bà goá” (G. A. Wright, “The Widow’s Mites: Praise or Lament? - A Matter of Context”, CBQ 44 (1982) p. 262).

Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giê-su đã tố cáo thái độ nệ luật và hạ thấp con người trong câu chuyện về luật “Cô-ban” ở Mc 7,10-13. Khi những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư chất vấn Đức Giê-su ở 7,5: “Sao các môn đệ của Ông không sống theo truyền thống của tiền nhân, nhưng để tay ô uế ăn bánh?” (7,5). Đức Giê-su trả lời: “Các ông những kẻ đạo đức giả” (7,6); “bỏ điều răn của Thiên Chúa, giữ truyền thống của người phàm” (7,8); “coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông” (7,9). Để minh chứng điều này, Đức Giê-su đưa ra trường hợp luật Cô-ban ở Mc 7,10-13: “10 Vì Mô-sê đã nói: ‘Ngươi hãy thảo kính cha của ngươi và mẹ của ngươi, và kẻ nguyền rủa cha hay mẹ phải chết tử hình.’ 11 Nhưng các ông, các ông nói: Người nào nói với cha hay mẹ rằng: ‘Những gì con có để giúp cha mẹ là co-ban, nghĩa là lễ phẩm đã dâng’, 12 Các ông không còn cho phép người ấy làm gì nữa cho cha hay mẹ. 13 Các ông huỷ bỏ lời của Thiên Chúa bằng truyền thống của các ông mà các ông đã truyền lại; và các ông còn làm nhiều điều khác giống như thế.”

Theo giáo huấn của Đức Giê-su, khi giá trị con người và giá trị tôn giáo xung đột nhau, thì giá trị con người phải được đặt lên trên. Con người phải được ưu tiên, cụ thể là phải chăm lo cho cha mẹ, phải lo chăm sóc và nâng đỡ các bà goá nghèo. Để các bà goá nghèo không có gì để nuôi thân, vì dâng cúng cho Đền Thờ là không nâng đỡ và bênh vực họ. Ai làm như thế sẽ chịu hình phạt như lời Thiên Chúa trong sách Xuất hành: “Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi…” (Xh 22,23) và bị nguyền rủa như ở Đnl 27,19: “Đáng nguyền rủa thay kẻ làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều, cô nhi quả phụ!” Đức Giê-su đưa ra nguyên tắc rõ ràng: “Ngày sa-bát được lập ra cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát” (Mc 2,27). Lề luật làm cho con người được sống và để bảo vệ con người chứ không phải để giết chết con người, hay ngăn cản con người đến với Thiên Chúa.

        c) Gợi về thân phận của Đức Giê-su

Về hình thức, việc dâng cúng của bà goá không hợp lý. Thiên Chúa là Đấng yêu thương những kẻ yếu thế, Người không đòi hỏi bà goá nghèo phải dâng cúng như vậy. Tuy nhiên, nếu so sánh với thân phận Đức Giê-su thì hành động của bà goá có ý nghĩa sâu xa. Cách hành văn lạ lùng ở 12,43-44 cho phép độc giả liên hệ đến cuộc đời Đức Giê-su. Theo lẽ thường thì câu chuyện có thể kết thúc ở phần đầu câu 12,44: “Vì mọi người lấy từ của cải dư thừa của họ mà bỏ vào, nhưng bà này lấy từ sự túng thiếu của mình mà bỏ vào” (12,44a.b). Điều lạ là bản văn thêm vào hai cụm từ nhấn mạnh: “tất cả (pas) những gì bà ấy có” (12,44c) “tất cả (holos) của nuôi thân bà” (12,44d). Lối hành văn này cho phép hiểu hành động của bà goá theo nghĩa biểu tượng: hiến dâng chính bản thân mình. Điều này gợi đến biến cố Đức Giê-su dâng hiến mạng sống trên thập giá. 

Thật vậy, việc Đức Giê-su dâng hiến sự sống của Người trên thập giá cũng không “hợp lý”. Nói theo kiểu Phao-lô thì thập giá là sự điên rồ. Mầu nhiệm thập giá nói lên sự hiến dâng tất cả của Đức Giê-su. Nếu như bà goá là nạn nhân của hệ thống tôn giáo thời đó thì Đức Giê-su cũng là nạn nhân của hệ thống tôn giáo ấy. Cụ thể là giới lãnh đạo Do Thái tìm giết Đức Giê-su và cái chết của Người là lúc Người hiến dâng tất cả những gì Người có, tất cả sự sống của Người.

Tương phản giữa một bên là thái độ khoe khoang của các kinh sư, họ muốn cho mọi người biết tới (12,38-39), bên kia là bà goá nghèo, xuất hiện cách âm thầm kín đáo (12,42) gợi đến cuộc đời Đức Giê-su. Người đã sống như mọi người, thi hành sứ vụ và cuối cùng chết ô nhục trên thập giá. Bản văn càng có ý nghĩa hơn khi câu chuyện bà goá dâng “tất cả những gì bà ấy có, tất cả của nuôi thân bà” (12,44) được thuật lại vào lúc Đức Giê-su sắp bước vào cuộc Thương Khó. Có thể nói, Đức Giê-su nhận xét về cách thức dâng cúng của bà goá để nói về thân phận của Người. Người sẽ hiến dâng tất cả những gì Người có, hiến dâng trọn vẹn sự sống của Người trên thập giá.

        d) Mời gọi các môn đệ dấn thân đến cùng

Dựa trên liên hệ việc dâng cúng của bà goá với việc dâng hiến của Đức Giê-su, bài học dành cho các môn đệ trong bản văn và cho các độc giả là đi theo con đường Đức Giê-su đã đi. Thiên Chúa không muốn chúng ta dâng tất cả những gì chúng ta có để nuôi sống mình. Nhưng theo nghĩa biểu tượng, người môn đệ được mời gọi hiến dâng tất cả vì niềm tin. Lòng tin vào Đức Giê-su mời gọi hiến dâng chính bản thân mình cho Thiên Chúa, bằng cách sống hết lòng với sứ vụ và với anh chị em mình theo tinh thần Tin Mừng.

    3. Báo trước Đền Thờ sụp đổ (13,1-2)

Phần kết (13,1-2) đoạn văn 12,39–13,2 là lời Đức Giê-su báo trước Đền Thờ sẽ sụp đổ. Nét châm biếm của câu chuyện là bà goá nghèo có quyền đón nhận sự giúp đỡ của người khác để sống, nhưng bà ta đã dâng cho Đền Thờ tất cả những gì bà có để nuôi thân. Điều trớ trêu là Đền Thờ đó sẽ bị phá huỷ, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào mà không bị phá đổ (13,2). Mạch văn cho phép hiểu Đền Thờ sụp đổ là vì hệ thống tôn giáo gắn liền với Đền Thờ ấy đã xa rời Thiên Chúa. Cụ thể là các kinh sư giả hình, thích dáng vẻ bên ngoài, bỏ điều răn của Thiên Chúa để giữ truyền thống của những người phàm (7,8). Họ nói mà không làm, làm bộ cầu nguyện lâu giờ để ngốn nhà cửa của các bà goá (12,40) khi các bà goá nghèo cần sự  nâng đỡ của họ. Trầm trọng hơn, giới lãnh đạo tôn giáo lúc ấy đang tìm giết Đức Giê-su, Đấng đến nói Lời Thiên Chúa và mặc khải ý định của Thiên Chúa cho họ. Với lối sống xa rời ý định của Thiên Chúa như thế Đền Thờ sẽ sụp đổ thì không có gì lạ. Đền Thờ sụp đổ và tất cả những hoạt động đi kèm với Đền Thờ sẽ không còn nữa. Lời cảnh báo này mời gọi mọi người đổi mới tương quan với Thiên Chúa; canh tân cách thức thờ phượng và sống tương thân tương ái với nhau.

Kết luận

Với ba trình thuật: tố cáo giả hình (12,39-40); ý nghĩa việc dâng cúng (12,41-44) và báo trước Đền Thờ sụp đổ (13,1-2), người thuật chuyện đề cao sự hiểu biết của Đức Giê-su. Người biết những gì thầm kín trong lòng con người, biết trước tương lai của Đền Thờ. Qua đó làm nổi bật tư cách và uy quyền giảng dạy của Đức Giê-su, vì “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (1,21-22).

Đoạn văn 12,38–13,2 trình bày nhiều tương phản với nét châm biếm: Các kinh sư thích phô trương, bà goá lại âm thầm; nhiều người giàu dâng cúng “nhiều” mà lại là “ít”; bà goá nghèo dâng cúng “ít” mà lại “rất nhiều”; người giàu bỏ “nhiều” mà không giá trị, bà goá bỏ “ít” mà có giá trị cao: dâng hiến chính sự sống của mình. Dâng cả “sự sống” mình cho Đền Thờ nhưng Đền Thờ sẽ sụp đổ. Đền Thờ nguy nga tráng lệ tương phản với đống đổ nát, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Một nền phụng tự đạt đỉnh cao nơi công trình xây dựng lộng lẫy là Đền Thờ, nhưng thực chất việc thờ phượng lại là giả hình và làm bộ cầu nguyện lâu giờ.

Ba đề tài “các kinh sư”, “bà goá”, “Đền Thờ” vừa tố cáo cách sống của các kinh sư, vừa cảnh báo cách sống của các môn đệ, vừa cho biết cách xử thế với người nghèo, vừa gợi đến sự dâng hiến của Đức Giê-su trên thập giá, vừa mời gọi người tin dấn thân trọn vẹn như Đức Giê-su./.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét