Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 03 tháng 03 năm 2020.
Nội dung
Dẫn nhập
I. Bản văn, bối cảnh, cấu trúc Mc 12,38–13,2
1. Bản văn và chú thích
2. Bối cảnh
3. Phân đoạn
4. Cấu trúc
II. Phân tích một số đề tài
1.
Tố cáo các kinh sư
a)
“Nuốt hết nhà cửa của các bà goá” (12,40a)
b) “Làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40b)
2. Ý nghĩa việc dâng
cúng của bà goá (12,44)
a) “Gọi các môn đệ
lại” (12,43)
b) Tố cáo các kinh
sư qua việc làm của bà góa
c) Gợi về thân
phận của Đức Giê-su
d) Mời gọi các môn đệ dấn
thân đến cùng
3. Báo trước Đền Thờ sụp
đổ (13,1-2)
Kết luận
Đọc thoáng đoạn văn Mc 12,38–13,2, như thể tác giả thuật lại giáo huấn của Đức
Giê-su về ba đề tài độc lập: (1) coi chừng các kinh sư giả hình (12,38-40); (2)
giáo huấn từ quan sát bà goá nghèo dâng cúng (12,41-44); (3) báo trước Đền Thờ
sẽ sụp đổ (13,1-2). Bài viết này đặt ba trình thuật trên trong bối cảnh văn chương
Tin Mừng Mác-cô và tìm liên kết về ý nghĩa giữa ba câu chuyện trên. Có thể cách
người thuật chuyện kể ba câu chuyện này nhằm làm nổi bật tương quan giữa ba đề tài: “kinh
sư”, “bà goá”, “Đền Thờ”. Các kinh sư sống và ứng xử thế nào? Họ thích điều gì
và cư xử với các bà goá thế nào? Tại sao bản văn đề cao việc bà goá dâng cúng cho
Đền Thờ nhưng sau đó lại loan báo Đền Thờ sẽ sụp đổ không còn tảng đá nào trên
tảng đá nào? Bài viết trả lời những câu hỏi trên qua hai phần: (I) bản văn, bối cảnh, cấu trúc Mc 12,38–13,2; (II) Phân tích một số đề tài.
I.
Bản văn, bối cảnh, cấu trúc Mc 12,38–13,2
Để chuẩn bị phân tích bản văn, phần này quan sát bản văn qua bốn điểm: (1) bản văn và
chú thích; (2) bối cảnh; (3) phân đoạn; (4) cấu trúc.
1. Bản văn và chú thích
Đoạn văn Mc
12,38–13,2 được chia làm ba trình thuật nối tiếp nhau: (1) 12,38-40: hãy coi chừng
các kinh sư; (2) 12,41-44: bà goá nghèo và người giàu; (3) 13,1-2: Đức Giê-su
tiên báo Đền Thờ bị phá huỷ, (xem Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt).
(1) Mc 12,38-40: “38 Trong lời giảng dạy của mình, Người [Đức Giê-su]
nói: ‘Anh em hãy coi chừng các kinh sư thích dạo quanh với áo chùng, thích
được chào hỏi nơi công cộng, 39 thích chỗ nhất trong hội đường, và
chỗ danh dự trong đám tiệc. 40 Họ nuốt hết nhà cửa của các bà goá và làm bộ cầu
nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nặng hơn.’”
Chú thích:
- 12,38: “Anh em hãy coi chừng (blepete)”. Động từ “blepô”
(thấy) theo nghĩa “coi chừng” là kiểu hành văn riêng của Mác-cô.
- 12,38b-39: “thích dạo quanh”, “thích được chào hỏi”, “thích
chỗ nhất”, “thích chỗ danh dự”. Bốn động từ diễn tả sở thích của các
kinh sư đều gắn liền với nơi công cộng: “đi dạo”, “công trường”, “hội đường” và
“đám tiệc”. Câu tiếp theo (12,40) nói đến điều kín đáo hơn: “ngốn cả nhà cửa
của các bà goá” và “làm bộ cầu nguyện lâu giờ.”
- 12,40a: “ngốn cả nhà cửa của các bà goá”. Ngôn sứ Ma-la-khi tuyên sấm về
Ngày Đức Chúa thăm viếng Đền Thờ ở Ml 3,5: “Ta sẽ tới gần các ngươi mà xét xử;
Ta sẽ mau mắn làm chứng chống lại các tên phù thủy, các kẻ ngoại tình, bọn thề
gian cũng như quân bóc lột người làm công và cô nhi quả phụ; chống lại kẻ áp
bức ngoại kiều cùng những kẻ chẳng kính sợ Ta, – ĐỨC CHÚA các đạo binh phán.”
(2) Mc 12,41-44: “41 Ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng, Người [Đức
Giê-su] nhìn xem đám đông bỏ tiền vào thùng tiền dâng cúng ra sao. Nhiều người
giàu bỏ nhiều. 42 Một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền kẽm, trị giá một
đồng xu. 43 Gọi các môn đệ của Người lại, Người nói với các ông: “A-men, Thầy
nói cho anh em: Bà goá nghèo này đã bỏ vào hơn tất cả những người đã bỏ vào
thùng tiền dâng cúng. 44 Vì mọi người lấy từ của cải dư thừa của họ mà bỏ vào,
nhưng bà này lấy từ sự túng thiếu của mình mà bỏ vào tất cả những gì bà
ấy có, tất cả của nuôi thân bà.”
Chú thích:
- 12,41a: “ngồi” (kathizô). Động từ “kathizô” cho thấy Đức
Giê-su ở trong tư thế vị thầy dạy. Nơi ngồi được làm rõ: “đối diện với thùng
tiền dâng cúng”, nơi người ta bỏ tiền dâng cúng phục vụ Đền Thờ.
- 12,41b: Đức Giê-su “nhìn xem đám đông bỏ tiền vào thùng tiền dâng cúng ra
sao”. Nhân vật bà goá trong câu chuyện không lên tiếng, bà cũng không biết
chuyện gì đã xảy ra. Câu chuyện tập trung vào nhân vật Đức Giê-su: quan sát và giáo
huấn các môn đệ và độc giả.
- 12,41c: “Nhiều người giàu bỏ nhiều”. Hai lần tính từ “nhiều” (polus)
cho thấy sự dồi dào. Nhiều người, nhiều của, nhiều tiền để làm nổi bật lên cái
“ít” của bà goá.
- 12,42b: “hai đồng tiền kẽm, trị giá một đồng xu”. Tiền kẽm (leptos),
đồng xu (kodrantês) là tiền Rô-ma. “Hai đồng tiền kẽm”, được giải thích
là “trị giá một đồng xu”, lời giải thích này dành cho độc giả nói tiếng
Hy-lạp sử dụng tiền Đế quốc Rô-ma, đồng thời cho biết “đồng tiền kẽm” là nhỏ
nhất trong hệ thống tiền tệ thời đó.
- 12,43-44: kiểu nói nhấn mạnh quá mức làm ý nghĩa câu chuyện vượt ra ngoài
khung cảnh việc dâng cúng tiền bạc. Hành động của bà goá gợi lên nhiều ý nghĩa
quan trọng sẽ phân tích sau.
(3) Mc 13,1-2: “13,1 Khi ra khỏi Đền Thờ, một trong các môn đệ của Người nói
với Người: ‘Thưa Thầy, xem kìa, đá lớn thật, kiến trúc vĩ đại thật.’ 2 Đức
Giê-su nói với ông ấy: ‘Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, chắc
chắn sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào mà không bị phá đổ.’”
2. Bối cảnh
Mc 1–10 trình bày hoạt động của Đức Giê-su ở vùng Ga-li-lê và phụ cận. Từ
ch. 11, Người bắt đầu sứ vụ tại Giê-ru-sa-lem. Khi lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn
đầu, còn những kẻ theo Người thì kinh hoàng, sợ hãi (10,32), sau đó Người báo
trước cho Nhóm Mười Hai về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người (10,33-34).
Theo thần học Tin Mừng Mác-cô, lên Giê-ru-sa-lem cũng có nghĩa là đi chịu chết
(10,32-34). “Đi lên” Giê-ru-sa-lem đồng nghĩa với “đi xuống” trong thân phận
làm người. Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, bị khinh chê và chết trên thập giá.
Tin Mừng Mác-cô trình bày 4 lần Đức Giê-su và các môn đệ vào thành
Giê-ru-sa-lem. Lần thứ 1, vào thành bằng cuộc rước của dân chúng (11,1-11), sau
đó về Bê-tha-ni-a. Biến cố khai mạc này cho thấy ý nghĩa cuộc Thương Khó và
Phục Sinh. Như thế, những gì Đức Giê-su thực hiện và rao giảng ở Giê-ru-sa-lem soi
sáng và chuẩn bị cho biến cố này. Lần thứ 2 vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su
đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (11,15-17), chiều đến Người và các môn
đệ ra khỏi thành. Lần thứ 3 (11,27), Đức Giê-su vào thành với nhiều cuộc trao
đổi và tranh luận. Lần thứ 4 (14,16-17), lần cuối cùng, Đức Giê-su vào thành
Giê-ru-sa-lem để ăn lễ Vượt qua với các môn đệ, trong đêm đó Người bị bắt.
Đoạn văn 12,38–13,2 xảy xa khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ 3
(11,27–13,1). Trong lần này các thượng tế, các kinh sư và các kỳ mục chất vấn
Đức Giê-su về quyền của Người (11,27-33). Kế đến, Người nói với họ về dụ ngôn
những tá điền sát nhân (12,1-12). Nội dung đoạn văn tiếp theo (12,13-37) là ba
cuộc tranh luận và một lời giáo huấn: (1) Tranh luận với mấy người thuộc nhóm
Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê về việc nộp thuế cho hoàng đế Xê-da (12,13-17). (2)
Tranh luận với những người Xa-đốc về việc kẻ chết sống lại (12,18-27). (3)
Tranh luận với một người thuộc nhóm các kinh sư về điều răn đứng hàng đầu
(12,28-34). (4) Giáo huấn (12,35-37) về Đấng Ki-tô là Con và là Chúa của
Đa-vít. Lời giáo huấn này đặt trong bối cảnh Đức Giê-su “giảng dạy trong Đền
Thờ” (12,35). Tiếp theo là ba trình thuật về các kinh sư (12,38-40), về bà góa nghèo
dâng cúng (12,41-44) và về Đền Thờ (13,1-2).
Sau đoạn văn 12,38–13,2 là bài giảng cánh chung (13,3-32). Ch. 14 bắt đầu giai
đoạn mới. Sau trình thuật xức dầu tại Bê-tha-ni-a (14,3-9), Đức Giê-su vào
thành Giê-ru-sa-lem lần thứ 4 để ăn lễ Vượt qua với các môn đệ (14,12-31), sau
đó Người bị bắt (14,43-52). Như thế trình thuật 12,38–13,2 ở cuối sứ vụ của Đức
Giê-su, khi Người giảng dạy lần cuối cùng trước đám đông trong Đền Thờ.
3. Phân đoạn
Đoạn văn 12,38–13,2 kể lại một số tình tiết khi Đức Giê-su và các môn đệ
vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ 3. Đoạn văn này mở đầu bằng: “trong lúc giảng
dạy” (12,38) tiếp nối 12,35: “Khi Người giảng dạy trong Đền Thờ”, giáo huấn về đề
tài mới: “coi chừng các kinh sư” (12,38-40). Câu 12,38 khởi đầu đoạn văn mới với
ba trình thuật: trước hết Đức Giê-su nói với đám đông về các kinh sư (12,38-40);
sau đó ngồi quan sát người ta bỏ tiền vào thùng dâng cúng cho Đền Thờ
(12,41-44); cuối cùng Người ra khỏi Đền Thờ và tiên báo Đền Thờ sẽ sụp đổ (13,1-2).
Mc 13,3 vừa nối kết với 13,1-2 vừa dẫn vào đề tài mới. Người thuật chuyện kể
ở 13,3-4: “3 Ngồi trên núi Ô-liu, đối diện với Đền Thờ, các ông Phê-rô,
Gia-cô-bê, Gio-an và An-rê hỏi riêng Người [Đức Giê-su]: 4 ‘Xin Thầy nói cho
chúng con, bao giờ các điều ấy xảy ra, và có dấu chỉ gì khi sắp hoàn tất tất cả
những điều đó?’” (13,3-4). Với câu hỏi này, Đức Giê-su bắt đầu bài giảng cánh
chung (13,3-32) và kêu gọi: “Hãy tỉnh thức” (13,33-37). Nói cách khác, việc báo
trước Đền Thờ sẽ sụp đổ (13,1-2) vừa kết thúc hai câu chuyện trước đó về kinh sư
(12,38-40) và bà goá (12,41-44), vừa nối kết với diễn từ cánh chung (13,3-32).
4. Cấu trúc
Đoạn văn 12,38–13,2 được cấu trúc với ba câu chuyện:
1) 12,38-40: coi chừng các kinh sư
2) 12,41-44: người giàu và bà goá nghèo bỏ tiền dâng cúng
3) 13,1-2: báo trước Đền Thờ sẽ sụp đổ
Đọc lướt qua ít thấy nối kết giữ ba trình thuật, nhưng khi quan sát kỹ bản
văn, năm dấu hiệu văn chương sau cho thấy ba câu chuyện trên tương quan chặt
chẽ với nhau:
1) Trình thuật đặt trong bối cảnh Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem lần
thứ 3. Người tranh luận với giới lãnh đạo Do Thái và giảng dạy trong Đền Thờ. Nên
nơi hoạt động của Đức Giê-su là Đền Thờ. Cả ba trình thuật đều liên quan đến Đền
Thờ. Câu 12,38 mở đầu bằng: “Trong lời giảng dạy (têi
didakhêi) của mình, Người nói:…” Danh từ “giảng dạy” (didakhê)
và tên Đức Giê-su không xuất hiện trong câu này buộc độc giả nối kết với câu 12,35:
“Đức Giê-su lên tiếng nói khi giảng dạy trong Đền Thờ: ‘Sao
các kinh sư lại nói rằng Đấng Ki-tô là con Đa-vít?’” để biết ai giảng dạy và ở đâu.
Câu 12,35 xuất hiện tên gọi “Đức Giê-su”, động từ “giảng dạy” và danh từ “Đền
Thờ”. Vì thế giáo huấn của Đức Giê-su về coi chừng các kinh sư (12,38-40) là ở khu vực Đền Thờ.
2) Đề tài “coi chừng các kinh sư”, vừa nối kết với những gì Đức Giê-su đã
nói trước đó liên quan đến các “kinh sư” (12,28.32.35.38), vừa nối kết với
chuyện bà goá. Đức Giê-su nói về các kinh sư như sau: “Họ ngốn cả nhà cửa của
các bà goá và làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40). Danh từ “bà goá” xuất hiện 3
lần (12,40.42.43) trong đoạn văn 12,38–13,2. Trong Tin Mừng Mác-cô, các kinh sư
là những người chống đối Đức Giê-su. Những lời tố cáo tương tự ở trong Mát-thêu
và Lu-ca (Mt 23,5-7; Lc 11,43) không chỉ liên quan đến các kinh sư mà còn có
những người Pha-ri-sêu nữa. Trong Mác-cô, khi nói đến các kinh sư, bản văn nói
về giới lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ, vì các kinh sư là những người có uy thế trong
dân và là bậc thầy trong việc giải thích Kinh Thánh.
3) Đề tài “giảng dạy” (12,35.38) được đề cao trong đoạn văn 12,38–13,2. Đức
Giê-su dạy đám đông và các môn đệ. Trong Tin Mừng Mác-cô, đây là nơi duy nhất
Đức Giê-su nói với đám đông về các kinh sư thay vì nói trực tiếp với các kinh
sư.
4) Chuyện bà goá liên quan đến chuyện Đền Thờ bị sụp đổ với gợi ý tương
phản và châm biếm. Bà goá hy sinh tất cả những gì mình có để dâng vào Đền Thờ,
mà Đền Thờ đó sẽ bị sụp đổ. Nghĩa là chấm dứt mọi hình thức tôn giáo gắn liền
với Đền Thờ. Cụ thể là việc dâng cúng và cầu nguyện ở Đền Thờ.
5) Ba trình thuật trên nối tiếp nhau trong thời gian: (1) Đức Giê-su giảng
dạy dân chúng trong đền thờ (12,38-40); (2) sau đó Người ngồi quan sát người ta
bỏ tiền vào thùng tiền dâng cúng (12,41-44); (3) và cuối cùng ra khỏi Đền thờ
và báo trước Đền Thờ sẽ bị phá huỷ (13,1-2).
Tóm lại, đoạn văn 12,38–13,2 thống nhất về nơi chốn: Đền Thờ; thống nhất về
nội dung: giảng dạy tại Đền Thờ. Thống nhất về thời gian: ba câu chuyện nối
tiếp nhau trong lần thứ ba vào thành Giê-ru-sa-lem. Vậy để hiểu ý nghĩa đoạn
văn 12,38–13,2 cần phân tích cả ba câu chuyện: kinh sư, bà goá, Đền Thờ.
II. Phân tích một
số đề tài
Bài viết nhằm trình bày liên kết giữa ba câu chuyện (các kinh sư – bà goá –
Đền Thờ), nên tập trung phân tích ba đề tài: (1) tố cáo các kinh sư về việc
“nuốt hết nhà cửa của các bà goá và làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40); (2) ý
nghĩa việc dâng cúng của bà goá; (3) cách hiểu về báo trước Đền Thờ sụp đổ.
1. Tố cáo các kinh sư
Bốn sở thích của các kinh sư mà các môn đệ của Đức Giê-su nên tránh được kể
ở 12,38b-39. Câu tiếp theo (12,40) nói đến sai lạc trầm trọng hơn trong hai tương
quan: (a) tương quan với con người: “Nuốt hết nhà cửa của các bà goá” (12,40c);
(b) tương quan với Thiên Chúa: “Làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40b).
a) “Nuốt hết nhà cửa của các bà goá”
(12,40a)
Một số tác giả tự hỏi vào thời Đức Giê-su, các kinh sư đã làm gì để “ngốn
nhà cửa của các bà goá”? (12,40) Những cách hiểu sau đây dựa trên lịch sử và ở
ngoài bản văn nên mỗi tác giả đề nghị câu trả lời khác nhau. Chẳng hạn, J. Jeremias
cho rằng các kinh sư lợi dụng sự hiếu khách của các bà goá, hoặc là dụ ngọt để
các bà goá dâng cúng cho họ (J. Jeremias, Jérusalem au temps de Jésus,
(trad.), Paris 1967, p 166). Theo S. Légasse, kinh sư là những chuyên viên về
luật, có thể họ viện cớ bảo vệ quyền lợi của các bà goá để lợi dụng các khoản
thù lao (S. Légasse, L’évangile de Marc, (Lectio divina Comemtaire 5),
vol. 2, 1997, p.767). J. D. M. Derrett lại nghĩ rằng có thể các bà goá đã gửi
tiền của cho các kinh sư giữ, và họ đã tìm cách để rút bớt tiền của các bà goá
(J. D. M. Derrett, “‘Eating up the Houses of Widows’:
Jesus Comment on Lawyers”, NT 14 (1972) 1-9).
Điều chắc là lời Đức Chúa trong Cựu Ước khẳng định không được ức hiếp cô
nhi quả phụ. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết ở Gr
7,3-7: “3 ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa của Ít-ra-en phán: Hãy cải thiện
lối sống và hành động của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này. 4
Đừng ỷ vào lời giả dối sau đây: ‘Đền Thờ của ĐỨC CHÚA! Đền Thờ của ĐỨC CHÚA! Đã
có Đền Thờ của ĐỨC CHÚA!’ 5 Nếu các ngươi thật sự cải thiện lối sống và hành động
của các ngươi, nếu các ngươi thật sự đối xử công bình với nhau, 6 không ức hiếp
ngoại kiều hay cô nhi quả phụ, nếu các ngươi không đổ máu người vô tội nơi đây,
không đi theo các thần ngoại mà chuốc họa vào thân, 7 thì Ta sẽ cho các ngươi
lưu lại nơi này, trong phần đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi đến muôn đời.” Tuy
bản văn Mác-cô không nói rõ các kinh sư làm gì để ngốn cả nhà cửa các bà goá,
nhưng vế thứ hai soi sáng cho vế thứ nhất: “Họ làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40b).
b) “Làm bộ cầu nguyện lâu giờ” (12,40b)
“Làm bộ” chứ không phải “làm thiệt”, không phải là cầu nguyện thật. Chi
tiết này cho phép hiểu các kinh sư đã “làm bộ cầu nguyện lâu giờ” để ngốn tài
sản các bà goá. Nghĩa là họ dùng vẻ đạo đức bên ngoài để làm cho các bà goá mất
tiền mất của, mất nhà, mất cửa. Tương phản giữa “ngốn cả nhà cửa của các bà
goá” và “cầu nguyện lâu giờ” trở thành lời tố cáo mạnh mẽ việc làm của các kinh
sư. Một đàng, các bà goá đã nghèo lại còn bị các kinh sư tìm cách để chiếm đoạt
tài sản. Việc này ngược với điều răn yêu thương của Thiên Chúa. Hơn nữa cầu
nguyện là việc thờ phượng. Bằng cách giả bộ, các kinh sư đã không thực sự thờ
phượng Thiên Chúa. Ngược lại họ dùng chính việc cầu nguyện để làm cho của cải
các bà goá chuyển vào túi riêng của họ. Họ đã dùng Thiên Chúa để trục lợi.
Ở 12,38b-39, Đức Giê-su tố cáo các kinh sư qua những biểu hiện bên ngoài:
“38b thích dạo quanh với áo chùng, thích được chào hỏi nơi công cộng, 39
thích chỗ nhất trong hội đường, và chỗ danh dự trong đám tiệc”
(12,38b-39). Trong câu tiếp theo (12,40), Đức Giê-su tố cáo họ qua những
ẩn ý không tốt bên trong: “Họ nuốt hết nhà cửa của các bà goá và làm bộ cầu
nguyện lâu giờ” (12,40a.b). Kết luận là họ “sẽ bị kết án nặng hơn” (12,40c). Thái
độ các kinh sư ngược với điều Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Nếu ai muốn là người
đứng đầu, sẽ là người đứng sau mọi người và là người phục vụ mọi người” (Mc
9,35).
Tóm lại, cách sống của kinh sư trong đoạn văn ngược với tư cách người môn
đệ Đức Giê-su. Nói cách khác bản văn giúp độc giả thế nào “là môn đệ” (disciple) và “không là
môn đệ” (non-disciple).
2. Ý nghĩa việc dâng cúng của bà goá (12,44)
Dựa vào mạch văn, ý nghĩa việc bà goá dâng cúng vào Đền Thờ được trình bày
qua bốn điểm: (a) “Gọi các môn đệ lại” (12,43); (b) tố cáo các
kinh sư; (c) gợi đến thân phận Đức Giê-su; (d) mời gọi các môn đệ dấn thân đến
cùng.
a) “Gọi các môn đệ lại” (12,43)
Mc 12,43 mở đầu giáo huấn của Đức Giê-su cách long trọng với hai chi tiết
đáng chú ý: (1) Đức Giê-su “gọi các môn đệ của Người lại” (12,43a) và công
thức: “A-men, Thầy nói cho anh em:...” (12,43b). Trong đoạn văn 12,38–13,2,
nhóm nhân vật “các môn đệ” xuất hiện khá đột ngột. Trước đây, các môn đệ đã
xuất hiện trong trình thuật “cây vả bị chết khô” (11,14). Sau đó, Đức Giê-su
trao đổi với Phê-rô và các môn đệ ở 11,20-26. Từ câu 11,27: “Họ lại vào
Giê-ru-sa-lem”. Đại từ “họ” cho biết Đức Giê-su và các môn đệ vào thành
Giê-ru-sa-lem. Đây là lần vào thành Giê-ru-sa-lem lần thứ 3. Trong Tin Mừng
Mác-cô, tất cả các lần Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem đều có các môn đệ cùng đi. Điều
gây chú ý là trước khi nói với các môn đệ, người thuật chuyện dùng kiểu nói: “Gọi
các môn đệ lại” (12,43a).
Kiểu nói này xuất hiện 4 lần trong Tin Mừng Mác-cô (8,34; 9,35; 10,42;
12,43). Người thuật chuyện kể ở 8,34: “Người [Đức Giê-su] gọi (proskaleô)
đám đông cùng với các môn đệ của Người lại, Người nói với họ: ‘Nếu ai muốn đi
theo sau Tôi, hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình và hãy đi theo
Tôi’.” Ở 9,35, người thuật chuyện dùng động từ “phôneô” (gọi): “Người
[Đức Giê-su] ngồi xuống, gọi (phôneô) Nhóm Mười Hai và nói với họ: ‘Nếu
ai muốn là người đứng đầu, sẽ là người đứng sau mọi người và là người
phục vụ mọi người.’” Đến 10,42-44, Đức Giê-su gọi (proskaleô) các môn đệ
lại để dạy các ông phải sống như thế nào: “42 Gọi (proskaleô) các ông [các
môn đệ] lại, Đức Giê-su nói với các ông: ‘Anh em biết rằng Những người được coi
là thủ lãnh các dân thì thống trị trên họ. Những người làm lớn trong
dân thì thực thi quyền hành trên họ. 43 Nhưng giữa anh em thì không như
thế, người nào muốn làm lớn trong anh em sẽ là người phục vụ anh em. 44 Người
nào muốn là người đứng đầu trong anh em sẽ là đầy tớ mọi người’” (10,42-44). Theo
cách dùng trên, cụm từ “gọi các môn đệ lại” ở 12,43a mở đầu giáo huấn quan
trọng của Đức Giê-su. Tầm quan trọng của giáo huấn còn được nhấn mạnh qua công
thức: “A-men, Thầy bảo anh em:...” (12,43a). Đây là công thức long trọng, đề
cao tư cách giảng dạy của Đức Giê-su và mở đầu lời mặc khải cần lưu ý.
b) Tố cáo các kinh sư qua việc làm của bà góa
Cách bà goá bỏ tiền vào Đền Thờ là lời tố cáo mạnh mẽ giới lãnh đạo tôn
giáo thời đó. Có thể độc giả đã hiểu cách đơn giản như sau: việc dâng cúng của
bà goá là tấm gương cho các môn đệ noi theo, nhưng noi theo điều gì? Nếu hiểu theo
nghĩa: Đức Giê-su khen lòng quảng đại của bà goá và muốn mọi người cũng dâng
cúng tiền bạc như bà thì không ổn. Chẳng lẽ Thiên Chúa là Đấng yêu thương và
bênh vực cô nhi quả phụ (xem trích dẫn Gr
7,3-7 trên) lại muốn một bà goá dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống
mình sao? Nếu như bà goá đã dâng “tất cả những gì bà ấy có” và “tất cả của nuôi
thân” (12,44) thì bà lấy gì để sống? Đọc kỹ lời nhận định của Đức Giê-su giúp hiểu
ý nghĩa việc làm của bà goá qua ba điểm sau:
(1) Trước hết là cái “nhiều” của bà goá. “Bà goá nghèo này đã bỏ vào hơn
tất cả...” (12,43b). Câu này đề cao tương phản: “ít” mà “nhiều”. Một mình bà
goá chỉ bỏ vào một xu mà hơn cả “nhiều người giàu bỏ nhiều” (12,41) vào thùng
tiền dâng cúng. Đây là tương phản trên cả hai bình diện: về người, về của. Về
người, một mình bà goá nghèo đối lại với nhiều người giàu. Về của, bà goá chỉ
bỏ 1 xu, còn những người giàu bỏ nhiều. Những người giàu bỏ bao nhiêu? Bản văn
không nói rõ, nhưng từ “nhiều” vừa gợi lên hình ảnh của cải dư thừa, vừa hàm ý
số tiền họ bỏ vào nhiều nhưng không quan trọng, không ảnh hưởng gì đến cuộc sống
của họ.
(2) Kế đến là cái “ít” của người giàu. Chi tiết “bà này lấy từ sự túng
thiếu của mình mà bỏ vào” (21,44b) làm cho cái “nhiều” của người giàu (12,41)
trở thành “ít”, vì số nhiều mà họ bỏ vào so với tài sản của họ thì chỉ là dư
thừa. Vậy cái “nhiều” của họ làm nổi bật tương phản: “nhiều” nhưng thực sự thì
chẳng bao nhiêu, “nhiều” nhưng thực sự là “ít” vì không quan trọng, là phần dư
thừa. Ngược lại việc làm của bà goá “ít” về lượng nhưng phẩm chất lại “nhiều”. Một
đàng là “lấy từ sự dư thừa”, một đàng là “lấy từ sự túng thiếu”, nghĩa là lấy
từ những thứ cần thiết cho bà.
(3) Đặc biệt lời nhấn mạnh trong câu: “Bỏ vào tất cả những gì bà ấy
có, tất cả của nuôi thân bà” (12,44c.d). Câu này có hai chi tiết quan trọng. Bà
goá nghèo bỏ vào thùng tiền (1) “tất cả những gì bà ấy có”, (2) “tất cả của
nuôi thân” (12,44c.d). Danh từ Hy-lạp “bios” (của nuôi thân) còn có
nghĩa “sự sống”, “sự hiện hữu” (x. Lc 8,14). Lời giải thích trên vừa nhấn mạnh cái
nghèo của bà goá, vừa đề cao giá trị số tiền ít ỏi bà dâng. Giá trị lớn lao này
thể hiện qua hai tính từ Hy-lạp (1) “pas” (tất cả): “Tất cả những gì bà
ấy có” (12,44c) và (2) “holos” (tất cả, toàn thể): “Tất cả của nuôi thân
bà” (12,44d). Nếu như bà goá đã dâng cúng như thế thì sau khi dâng bà ấy lấy gì
để sống? Theo nghĩa đen, không thể nói: Đức Giê-su khen ngợi việc làm của bà
góa. Ngược lại, dâng cúng như thế là tước đi sự sống của bà, làm cho bà đã
nghèo lại càng nghèo hơn, sống cơ cực hơn. Theo mạch văn thì sau khi dâng cúng,
bà ấy không còn gì để nuôi thân nữa. Kiểu dâng cúng này không phải là điều
Thiên Chúa muốn.
Ba nhận xét trên cho phép độc giả hiểu sự dâng cúng của bà goá như là lời
tố cáo các kinh sư. Có thể nói, đây là ví dụ điển hình về cách các kinh sư ngốn
nhà cửa và tài sản các bà goá. Sách Xuất Hành cho thấy Thiên Chúa đối xử thế
nào với Mẹ goá con côi và người nghèo ở Xh 22,21-26: “21 Mẹ goá con côi, các
ngươi không được ức hiếp. 22 Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe
tiếng nó kêu cứu. 23 Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các
ngươi… 24 Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay
tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. 25
Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho
nó trước khi mặt trời lặn. 26 Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó
sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.”
Qua việc làm của bà goá, câu chuyện gián tiếp tố cáo hệ thống tôn giáo thời
đó đã bóc lột bà goá nghèo. Dâng cúng theo kiểu của bà cho thấy các kinh sư đã
làm cho các bà goá hiểu sai việc dâng cúng. Bà goá nghèo thực hành việc dâng
cúng mà không để ý đến nhu cầu chính đáng của bản thân. Dâng cúng như thế không
làm Thiên Chúa hài lòng, vì Thiên Chúa của kẻ sống, không muốn lấy đi tất cả
những gì bà có để nuôi thân. Hơn nữa nhận của dâng cúng như thế là không có lòng
thương xót và không biết nâng đỡ người nghèo. G. A. Wright viết: “Giới lãnh đạo
tôn giáo đã dạy bà ta và đã động viên các bà goá dâng cúng như bà goá này đã
làm, qua câu chuyện này Đức Giê-su tố cáo hệ thống giá trị tôn giáo đã dẫn bà
goá tới hành động như thế, Người lên án những kẻ đã tạo ra suy nghĩ và hành
động như bà goá” (G. A. Wright, “The Widow’s Mites: Praise or Lament? - A
Matter of Context”, CBQ 44 (1982) p. 262).
Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giê-su đã tố cáo thái độ nệ luật và hạ thấp con
người trong câu chuyện về luật “Cô-ban” ở Mc 7,10-13. Khi những người
Pha-ri-sêu và một số kinh sư chất vấn Đức Giê-su ở 7,5: “Sao các môn đệ của Ông
không sống theo truyền thống của tiền nhân, nhưng để tay ô uế mà ăn
bánh?” (7,5). Đức Giê-su trả lời: “Các ông là những kẻ đạo đức giả”
(7,6); “bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà giữ truyền thống của người phàm”
(7,8); “coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông”
(7,9). Để minh chứng điều này, Đức Giê-su đưa ra trường hợp luật Cô-ban ở Mc
7,10-13: “10 Vì Mô-sê đã nói: ‘Ngươi hãy thảo kính cha của ngươi và mẹ của
ngươi, và kẻ nguyền rủa cha hay mẹ phải chết tử hình.’ 11 Nhưng các ông,
các ông nói: Người nào nói với cha hay mẹ rằng: ‘Những gì con có để giúp cha
mẹ là co-ban, nghĩa là lễ phẩm đã dâng’, 12 Các ông không còn cho phép
người ấy làm gì nữa cho cha hay mẹ. 13 Các ông huỷ bỏ lời của Thiên Chúa bằng
truyền thống của các ông mà các ông đã truyền lại; và các ông còn làm nhiều
điều khác giống như thế.”
Theo giáo huấn của Đức Giê-su, khi giá trị con người và giá trị tôn giáo
xung đột nhau, thì giá trị con người phải được đặt lên trên. Con người phải
được ưu tiên, cụ thể là phải chăm lo cho cha mẹ, phải lo chăm sóc và nâng đỡ
các bà goá nghèo. Để các bà goá nghèo không có gì để nuôi thân, vì dâng cúng
cho Đền Thờ là không nâng đỡ và bênh vực họ. Ai làm như thế sẽ chịu hình phạt
như lời Thiên Chúa trong sách Xuất hành: “Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho
gươm chém giết các ngươi…” (Xh 22,23) và bị nguyền rủa như ở Đnl 27,19: “Đáng nguyền
rủa thay kẻ làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều, cô nhi quả phụ!” Đức
Giê-su đưa ra nguyên tắc rõ ràng: “Ngày sa-bát được lập ra cho con người, chứ
không phải con người cho ngày sa-bát” (Mc 2,27). Lề luật làm cho con người được
sống và để bảo vệ con người chứ không phải để giết chết con người, hay ngăn cản
con người đến với Thiên Chúa.
c) Gợi về thân phận của Đức Giê-su
Về hình thức, việc dâng cúng của bà goá không hợp lý. Thiên Chúa là Đấng
yêu thương những kẻ yếu thế, Người không đòi hỏi bà goá nghèo phải dâng cúng
như vậy. Tuy nhiên, nếu so sánh với thân phận Đức Giê-su thì hành động của bà
goá có ý nghĩa sâu xa. Cách hành văn lạ lùng ở 12,43-44 cho phép độc giả liên
hệ đến cuộc đời Đức Giê-su. Theo lẽ thường thì câu chuyện có thể kết thúc ở phần
đầu câu 12,44: “Vì mọi người lấy từ của cải dư thừa của họ mà bỏ vào, nhưng bà
này lấy từ sự túng thiếu của mình mà bỏ vào” (12,44a.b). Điều lạ là bản văn thêm
vào hai cụm từ nhấn mạnh: “tất cả (pas) những gì bà ấy có” (12,44c) “tất
cả (holos) của nuôi thân bà” (12,44d). Lối hành văn này cho phép hiểu
hành động của bà goá theo nghĩa biểu tượng: hiến dâng chính bản thân mình. Điều
này gợi đến biến cố Đức Giê-su dâng hiến mạng sống trên thập giá.
Thật vậy, việc Đức Giê-su dâng hiến sự sống của Người trên thập giá cũng
không “hợp lý”. Nói theo kiểu Phao-lô thì thập giá là sự điên rồ. Mầu nhiệm
thập giá nói lên sự hiến dâng tất cả của Đức Giê-su. Nếu như bà goá là nạn nhân
của hệ thống tôn giáo thời đó thì Đức Giê-su cũng là nạn nhân của hệ thống tôn
giáo ấy. Cụ thể là giới lãnh đạo Do Thái tìm giết Đức Giê-su và cái chết của
Người là lúc Người hiến dâng tất cả những gì Người có, tất cả sự sống của
Người.
Tương phản giữa một bên là thái độ khoe khoang của các kinh sư, họ muốn cho
mọi người biết tới (12,38-39), bên kia là bà goá nghèo, xuất hiện cách âm thầm kín
đáo (12,42) gợi đến cuộc đời Đức Giê-su. Người đã sống như mọi người, thi hành
sứ vụ và cuối cùng chết ô nhục trên thập giá. Bản văn càng có ý nghĩa hơn khi
câu chuyện bà goá dâng “tất cả những gì bà ấy có, tất cả của nuôi thân bà”
(12,44) được thuật lại vào lúc Đức Giê-su sắp bước vào cuộc Thương Khó. Có thể
nói, Đức Giê-su nhận xét về cách thức dâng cúng của bà goá để nói về thân phận
của Người. Người sẽ hiến dâng tất cả những gì Người có, hiến dâng trọn vẹn sự
sống của Người trên thập giá.
d) Mời gọi các môn đệ dấn
thân đến cùng
Dựa trên liên hệ việc dâng cúng của bà goá với việc dâng hiến của Đức
Giê-su, bài học dành cho các môn đệ trong bản văn và cho các độc giả là đi theo
con đường Đức Giê-su đã đi. Thiên Chúa không muốn chúng ta dâng tất cả những gì
chúng ta có để nuôi sống mình. Nhưng theo nghĩa biểu tượng, người môn đệ được
mời gọi hiến dâng tất cả vì niềm tin. Lòng tin vào Đức Giê-su mời gọi hiến dâng
chính bản thân mình cho Thiên Chúa, bằng cách sống hết lòng với sứ vụ và với
anh chị em mình theo tinh thần Tin Mừng.
3. Báo trước Đền Thờ sụp đổ (13,1-2)
Phần kết (13,1-2) đoạn văn 12,39–13,2 là lời Đức Giê-su báo trước Đền Thờ
sẽ sụp đổ. Nét châm biếm của câu chuyện là bà goá nghèo có quyền đón nhận sự
giúp đỡ của người khác để sống, nhưng bà ta đã dâng cho Đền Thờ tất cả những gì
bà có để nuôi thân. Điều trớ trêu là Đền Thờ đó sẽ bị phá huỷ, sẽ không còn
tảng đá nào trên tảng đá nào mà không bị phá đổ (13,2). Mạch văn cho phép hiểu
Đền Thờ sụp đổ là vì hệ thống tôn giáo gắn liền với Đền Thờ ấy đã xa rời Thiên Chúa.
Cụ thể là các kinh sư giả hình, thích dáng vẻ bên ngoài, bỏ điều răn của Thiên
Chúa để giữ truyền thống của những người phàm (7,8). Họ nói mà không làm, làm
bộ cầu nguyện lâu giờ để ngốn nhà cửa của các bà goá (12,40) khi các bà goá
nghèo cần sự nâng đỡ của họ. Trầm trọng
hơn, giới lãnh đạo tôn giáo lúc ấy đang tìm giết Đức Giê-su, Đấng đến nói Lời
Thiên Chúa và mặc khải ý định của Thiên Chúa cho họ. Với lối sống xa rời ý định
của Thiên Chúa như thế Đền Thờ sẽ sụp đổ thì không có gì lạ. Đền Thờ sụp đổ và
tất cả những hoạt động đi kèm với Đền Thờ sẽ không còn nữa. Lời cảnh báo này mời
gọi mọi người đổi mới tương quan với Thiên Chúa; canh tân cách thức thờ phượng và
sống tương thân tương ái với nhau.
Kết
luận
Với ba trình thuật: tố cáo giả hình (12,39-40); ý nghĩa việc dâng cúng
(12,41-44) và báo trước Đền Thờ sụp đổ (13,1-2), người thuật chuyện đề cao sự
hiểu biết của Đức Giê-su. Người biết những gì thầm kín trong lòng con người, biết
trước tương lai của Đền Thờ. Qua đó làm nổi bật tư cách và uy quyền giảng dạy
của Đức Giê-su, vì “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như
các kinh sư” (1,21-22).
Đoạn văn 12,38–13,2 trình bày nhiều tương phản với nét châm biếm: Các kinh
sư thích phô trương, bà goá lại âm thầm; nhiều người giàu dâng cúng “nhiều” mà lại là “ít”;
bà goá nghèo dâng cúng “ít” mà lại “rất nhiều”; người giàu bỏ “nhiều” mà không
giá trị, bà goá bỏ “ít” mà có giá trị cao: dâng hiến chính sự sống của mình.
Dâng cả “sự sống” mình cho Đền Thờ nhưng Đền Thờ sẽ sụp đổ. Đền Thờ nguy nga tráng
lệ tương phản với đống đổ nát, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Một nền phụng
tự đạt đỉnh cao nơi công trình xây dựng lộng lẫy là Đền Thờ, nhưng thực chất
việc thờ phượng lại là giả hình và làm bộ cầu nguyện lâu giờ.
Ba đề tài “các kinh sư”, “bà goá”, “Đền Thờ” vừa tố cáo cách sống của các
kinh sư, vừa cảnh báo cách sống của các môn đệ, vừa cho biết cách xử thế với
người nghèo, vừa gợi đến sự dâng hiến của Đức Giê-su trên thập giá, vừa mời gọi
người tin dấn thân trọn vẹn như Đức Giê-su./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét