Bài viết tiếng Pháp:
Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 06 tháng 04 năm 2020.
Nội dung
I. Nhị nguyên thiên nhiên
1. Ánh sáng và bóng tối
2. Ngày và đêm
II. Nhị nguyên không gian
1. Thượng giới
2. Hạ giới
III. Nhị nguyên “thuộc về”
1. Thuộc về ai? Thiên Chúa hay quỷ?
2. Thuộc về điều gì? Sự thật hay dối
trá?
IV. Nhị nguyên trong đời sống
con người
1. Có sự sống đời đời hay bị hư mất
2. Không bị lên án hay bị lên án
3. Sống và chết
4. Tự do hay nô lệ
5. Sinh ra bởi Thần Khí hay sinh ra bởi xác
thịt
V. Nhị nguyên nơi người tin
1. Sinh hoa trái hay không sinh hoa trái
2. Ở lại hay không ở lại trong Đức
Giê-su
3. Không thuộc về hay thuộc về thế gian
VI. Nguồn gốc và ý nghĩa thần
học
1. Nhị nguyên trong Tin Mừng đến từ đâu?
2. Ý nghĩa thần học của nhị
nguyên trong Tin Mừng
Kết luận
Dẫn nhập
Tác
giả Tin Mừng Gio-an dùng nhiều đề tài và ngôn ngữ nhị nguyên. Đó là những cặp
từ đối lập hay tương phản nhau. Nhị nguyên trong Tin Mừng không theo nghĩa
triết học như nguyên lý Tốt và Xấu (les principes du Bien et du Mal) mà
là diễn tả thần học và trình bày mặc khải. Thông thường yếu tố nhị nguyên trái
ngược nhau, chẳng hạn ánh sáng và bóng tối, thuộc về Thiên Chúa hay thuộc về
quỷ, thuộc về sự thật hay thuộc về sự dối trá, sự sống hay sự chết… Tuy nhiên, một
số yếu tố không hoàn toàn đối lập nhau, chẳng hạn thượng giới và hạ giới. Đây
là hai thế giới phân biệt nhưng có liên hệ với nhau. Nguồn gốc của Đức Giê-su
là ở thượng giới, nhưng Người đến hạ giới để thực thi sứ vụ. Với tư cách là con
người, mọi người đều thuộc về hạ giới, nhưng con người có thể đón nhận và sống
những thực tại thượng giới với điều kiện là được “sinh ra một lần nữa” (Ga 3,3.7),
“sinh ra bởi nước và Thần Khí” (3,5b). Để tìm hiểu đề tài nhị nguyên trong Tin
Mừng, bài viết trình bày sáu mục: (I) nhị nguyên thiên nhiên (ánh sáng và bóng
tối, ngày và đêm); (II) nhị nguyên không gian (thượng giới và hạ giới); (III) nhị
nguyên “thuộc về” (thuộc về ai, thuộc về điều gì); (IV) nhị nguyên trong đời
sống; (V) nhị nguyên nơi người tin; (VI) nguồn gốc và ý nghĩa thần học của nhị
nguyên trong Tin Mừng.
I. Nhị nguyên thiên nhiên
Nhị nguyên thiên nhiên gồm hai cặp từ: (1) ánh
sáng và bóng tối; (2) ngày và đêm.
1. Ánh sáng và bóng tối
Tin Mừng nói đến nhị nguyên qua các yếu tố
lấy trong thiên nhiên: ánh sáng và bóng tối. Trong lời tựa Tin Mừng ánh sáng
ban ngày biểu tượng cho Lời (Logos) ở 1,4. “Lời - Đức Giê-su” được đồng hoá với ánh sáng đến trong thế gian
để chiếu soi nhân loại. Trong khi bóng tối ban đêm biểu tượng cho thế lực chống
lại Đức Giê-su và biểu tượng cho sự chết, sự hư mất. Lời tựa nói về đề tài “ánh
sáng – bóng tối” ở 1,3b-5: “3b Điều đã được tạo thành 4 ở
nơi Người (Logos) là sự sống, và sự sống là ánh sáng của loài người; 5
và ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng.” (Xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư). Thế gian không nhận biết ánh sáng được
nói đến ở 1,9-10: “9 Người (Logos)
là ánh sáng thật, ánh sáng chiếu soi
mọi người, đến trong thế gian. 10 Người ở trong thế gian, thế gian được tạo
thành nhờ Người và thế gian đã không nhận biết Người.” Lời (Logos) đồng hoá với ánh sáng (1,9a), sứ vụ của Lời là
đến trong thế gian (1,9c) để chiếu soi mọi người. Sứ vụ của ánh sáng gặp phải sự khước từ của bóng tối (1,5) và của thế
gian (1,10c).
Trong sứ vụ, Đức Giê-su tự đồng hoá mình với
ánh sáng và mời gọi mọi người theo Người để có ánh sáng của sự sống và không
bước đi trong bóng tối. Người tuyên bố ở 8,12: “Chính Tôi
là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng
tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.”
2. Ngày và đêm
Nhị nguyên “ánh sáng và bóng tối” song song
với cặp từ đối lập “ngày và đêm.” Ban ngày biểu tượng thời gian Đức Giê-su thi
hành sứ vụ, ban đêm biểu tượng cho cái chết của Người. Đức Giê-su nói với các
môn đệ ở 9,4-5: “4 Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã
sai Thầy khi còn là ngày; đêm đến thì không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu
Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.” Trong ch. 11, lúc Đức Giê-su đang đối diện với cái chết (11,7-8.16), Người
nói với các môn đệ ở 11,9-10: “9 Ban ngày chẳng có mười
hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không
vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. 10 Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì ánh sáng không ở trong
người ấy.” Ở đây, “đi ban đêm” có nghĩa là bước đi dưới
sự chi phối của thế lực đen tối. Cuối sứ vụ, khi biến cố Thương Khó gần đến, Đức
Giê-su nói với đám đông ở 12,35-36a: “35 Còn
một ít thời gian nữa, ánh sáng ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người có
ánh sáng, để bóng tối không bắt được các người. Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu. 36a Khi các
người có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng.”
Đức Giê-su là ánh sáng nhưng
ánh sáng sẽ tắt trên thập giá. Tuy nhiên, thập giá là nơi Đức Giê-su được tôn vinh.
Từ thập giá, Người ban cho thế gian ánh sáng đích thực của sự sống. Vậy các yếu
tố nhị nguyên “ánh sáng và bóng tối”, “ngày và đêm” đối lập nhau. Đức Giê-su đề
nghị với mọi người là ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng của sự sống. Xem các
bài viết về đề tài này: “Ánh
sáng và bóng tối trong Tin Mừng Gio-an”; “Trong
Tin Mừng Gio-an, biểu tượng ánh sáng dùng để làm gì?”; “Ngày
và đêm trong Tin Mừng Gio-an.”
II. Nhị nguyên không gian
Nhị nguyên về không gian
trình bày qua hai thế giới: (1) “thượng giới” và (2) “hạ giới”.
1. Thượng giới
Theo
thần học Tin Mừng, “hạ giới” có tương quan với “thượng giới” là nơi Đức Giê-su
xuất phát và từ đó Người đến thế gian. Trong bối cảnh tranh luận, Đức Giê-su
nói với những người Pha-ri-sêu ở 8,23: “Các ông, các ông thuộc về hạ giới; còn
Tôi, Tôi thuộc về thượng giới. Các ông, các ông thuộc về thế gian này; còn Tôi,
Tôi không thuộc về thế gian này.” Thượng giới, thế giới của Thiên Chúa, là nơi
mà con người ở hạ giới không thể nhận biết. Đức Giê-su khẳng định ở 3,13:
“Không ai đã lên trời, ngoại trừ Đấng từ trời xuống là Con Người.” Trong ch. 6,
Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 6,46: “Không ai đã thấy Cha, nếu không
phải là Đấng đến từ Thiên Chúa, chính Đấng ấy đã thấy Cha.”
Trong
các trích dẫn trên, Đức Giê-su mặc khải nguồn gốc thượng giới của Người và
Người đến trần gian với tư cách là Đấng được Cha sai đến. Trong ch. 3, Gio-an
Tẩy Giả nói về Đức Giê-su ở 3,31-33: “31 Đấng đến từ trên thì ở trên tất cả; kẻ
bởi đất thì thuộc về đất và nói chuyện thuộc về đất. Đấng đến bởi trời [thì ở
trên tất cả]; 32 điều Người đã thấy và đã nghe, Người làm chứng về điều ấy, và
lời chứng của Người chẳng ai đón nhận. 33 Ai đón nhận lời chứng của Người thì
xác nhận rằng: Thiên Chúa thì chân thật.” Vậy có khoảng cách không thể vượt qua
giữa thượng giới và hạ giới. Nhưng không có đối lập giữa hai thế giới này. Ngược
lại, Đức Giê-su đến từ trời để nối kết hai thế giới lại với nhau. Sứ vụ của Đức
Giê-su là mặc khải cho con người ở hạ giới những gì Người đã thấy và đã nghe từ
nơi Cha của Người ở thượng giới. Người tuyên bố ở 12,49-50: “49
Vì chính Tôi đã không nói tự mình, nhưng là Cha, Đấng đã sai Tôi, Chính Người
cho Tôi mệnh lệnh để Tôi nói điều gì
và tuyên bố điều gì. 50 Và Tôi biết rằng: Mệnh lệnh của Người là sự sống đời
đời. Vậy những điều Tôi nói, thì như
Cha đã nói với Tôi thế nào, Tôi nói như vậy.”
Trình thuật Đức Giê-su trước Phi-la-tô cho độc giả
biết Đức Giê-su là Vua, nhưng Vương quốc của Người không thuộc về thế gian này.
Người nói với Phi-la-tô ở 18,36: “Vương quốc của Tôi không thuộc về thế gian
này. Nếu Vương quốc của Tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của Tôi đã chiến
đấu để Tôi không bị nộp cho những người Do Thái. Nhưng thật ra, Vương quốc của
Tôi không ở chốn này.” Vương quốc của Đức Giê-su không thuộc về thế giới này, nhưng
Người thực thi vương quyền ở hạ giới. Người nói với Phi-la-tô ở 18,37b: “Chính
ngài nói rằng Tôi là Vua. Vì điều này Tôi đã sinh ra, và vì điều này Tôi đã đến
thế gian để làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi.”
Thượng giới là nguồn
gốc của Đức Giê-su, Người từ trời xuống để làm con người ở hạ giới được tham
dự vào sự sống thần linh ở thượng giới.
2. Hạ giới
Theo thần học Tin Mừng, nhị nguyên “thượng giới và
hạ dưới” không đối lập mà có tương quan mật thiết với nhau. Đức Giê-su đến từ thượng
giới để ban sự sống đời đời cho con người ở hạ giới. Nghĩa là con người ở trần
gian có thể sống những thực tại ở thượng giới với điều kiện là “được sinh ra
một lần nữa”, “được sinh ra bởi trên” (3,3.7), nghĩa là “được sinh ra bởi nước
và Thần Khí” (3,5). Đức Giê-su nói với Ni-cô-đê-mô ở 3,3: “A-men, a-men, Tôi
nói cho ông: Nếu ai không được sinh ra một lần nữa, thì không thể thấy vương
quốc Thiên Chúa”; và ở 3,5: “A-men, a-men, Tôi nói cho ông: Nếu ai không được sinh
ra bởi nước và Thần Khí, thì không thể bước vào vương quốc Thiên Chúa.” Vậy với
biến cố Đức Giê-su đến trần gian, thế giới của Thiên Chúa đã mở ra cho nhân loại.
Người đến mặc khải cho con người biết ý định của Thiên Chúa (12,49-50).
Theo Tin Mừng, “được sinh ra bởi trên”, “được sinh
ra bởi nước và Thần Khí” có nghĩa là mở lòng đón nhận sự sống mới nhờ lắng nghe
giáo huấn của Đức Giê-su và tin vào Người. Từ nay, bất kỳ ai tin thì “thấy
vương quốc Thiên Chúa” (3,3b) và được “bước vào vương quốc Thiên Chúa” (3,5b). Nói
cách khác, người tin “thấy” và “sống” những thực tại thượng giới ngay ở hạ giới
như lời Đức Giê-su nói với đám đông ở 6,35: “Chính Tôi là bánh sự sống, người
đến với Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ”; và ở
6,40: “Thật vậy, đây là ý muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy Con và tin vào
Người thì có sự sống đời đời, và
chính Tôi sẽ làm cho người ấy sống lại [trong] ngày sau hết.”
III. Nhị nguyên “thuộc về”
Nhị nguyên thuộc về ai, thuộc về điều gì, là đề
tài quan trọng trong Tin Mừng. Phần sau trình bày hai điểm: (1) thuộc về ai? Thiên
Chúa hay quỷ?; (2) thuộc về điều gì? Sự thật hay dối trá?
1. Thuộc về ai? Thiên Chúa hay quỷ?
Tranh luận giữa những người Do Thái và Đức
Giê-su trong đoạn văn 8,31-47 nhấn mạnh đề tài thuộc về ai, đồng thời xác định rõ
ai là cha của những người Do Thái (quỷ) và ai là Cha của Đức Giê-su (Thiên Chúa).
Những người Do Thái khẳng định họ là con cái Áp-ra-ham khi nói với Đức Giê-su ở
8,39a: “Cha của chúng tôi là Áp-ra-ham.” Nhưng Đức Giê-su trả lời họ ở 8,39b-41: “Nếu các
ông là con cái Áp-ra-ham, các ông đã làm những việc của Áp-ra-ham. 40 Nhưng bây
giờ các ông tìm giết Tôi, là người đã
nói cho các ông sự thật mà Tôi đã nghe nơi Thiên Chúa. Điều đó, Áp-ra-ham đã
không làm. 41 Còn các ông, các ông làm những việc của cha các ông.” Đọc đoạn
văn này, độc giả chưa biết cha của những người Do Thái là ai. Đức Giê-su biết họ
thuộc “dòng dõi Áp-ra-ham” (8,37a) nhưng họ đã không làm công việc của Áp-ra-ham
(8,39b-40). Khi tìm giết Đức Giê-su (8,37.40), họ
không có Áp-ra-ham là cha nữa. Họ lại dựa vào Cha của lòng tin khi nói với Đức
Giê-su ở 8,41b: “Chúng tôi không phải là con đẻ hoang.
Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa.” Nhưng Đức
Giê-su cũng cho biết là không đúng khi cho họ biết ở 8,42: “Nếu Thiên Chúa là Cha các ông, các ông đã yêu mến Tôi, vì chính Tôi phát
xuất và đến từ nơi Thiên Chúa. Tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Đấng ấy đã
sai Tôi.” Họ không yêu mến Đức Giê-su và không nhìn
nhận Người là Đấng Thiên Chúa sai đến, nên không có Thiên Chúa là Cha nữa.
Vậy ai là cha của những người Do Thái? Đức Giê-su
nói rõ ở 8,44: “Các ông thuộc về quỷ là cha các ông, và
các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông. Ngay từ đầu, nó đã là kẻ sát
nhân, và nó đã không
đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó
nói, nó nói theo bản tính của nó là sự gian dối, vì nó là kẻ nói dối, và là cha
của sự gian dối.” Vậy cha của những người Do Thái là quỷ, họ thuộc về quỷ và đang làm công
việc của quỷ. Họ không thuộc về Thiên Chúa như Đức Giê-su cho họ biết ở 8,47: “Ai thuộc về Thiên Chúa thì nghe lời Thiên Chúa. Vì điều này mà các ông
không nghe, đó là các ông không thuộc về Thiên Chúa.”
Việc những người Do Thái có cha là quỷ cần
được hiểu trong mạch văn. Theo thần học Tin Mừng, hành động làm lộ ra mình thuộc
về ai. Những người Do Thái trong đoạn văn 8,31-47 thù nghịch và tìm cách giết Đức
Giê-su (8,37.40). Chính hành động xác định họ đứng về phía quỷ và đang thực
hiện ước muốn của quỷ (8,44b). Ngược lại, nếu họ làm công việc Áp-ra-ham đã làm
(8,39c) và yêu mến Đức Giê-su (8,42b), thì họ là con cháu của Áp-ra-ham (8,39b),
có Thiên Chúa là Cha (8,41), nghĩa là thuộc về Thiên Chúa và nghe lời Đức
Giê-su (8,47).
Trong Tin Mừng, thuộc
về quỷ, tương đương với thuộc về thủ lãnh thế gian này. Những kẻ chống đối trong
sứ vụ Đức Giê-su cùng một phía với thế gian ghét các môn đệ trong đoạn văn 15,18–16,4a.
Trong ch. 17, Đức Giê-su ngỏ lời với Cha ở 17,14: “Con đã
ban cho họ (các môn đệ) lời của Cha và thế gian đã ghét họ vì họ không thuộc về
thế gian cũng như
chính Con không thuộc về thế gian.” Xem đề tài thuộc
về quỷ và thuộc về thủ lãnh thế gian trong bài viết: “Sáu
đặc điểm của thế gian thù ghét.” Đề tài thuộc về hay không thuộc về thế gian được
bàn đến trong mục “V. Nhị nguyên nơi người tin.”
2. Thuộc về điều gì? Sự thật hay dối
trá?
Nhị nguyên trong lựa
chọn thuộc về Thiên Chúa hay thuộc về quỷ, dẫn đến nhị nguyên thuộc về sự thật
hay thuộc về sự dối trá. Đức Giê-su cho biết quỷ không thuộc về sự thật và quỷ là
cha của sự dối trá. Người nói với những người Do Thái về quỷ ở
8,44b: “Ngay từ đầu, nó đã là kẻ sát nhân, và nó đã không
đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó
nói, nó nói theo bản tính của nó là sự gian dối, vì nó là kẻ nói dối, và là cha
của sự gian dối.”
Ngược lại, Thiên Chúa, Đức Giê-su và các môn
đệ thuộc về sự thật. Người thuật chuyện cho độc giả biết trong lời tựa ở 1,17:
“Vì Lề Luật đã được ban nhờ Mô-sê, ân
sủng và sự thật đã có nhờ Đức Giê-su Ki-tô.” Sự thật đến từ Đức Giê-su, bởi vì Người nói sự thật như Người chất vấn
những người Do Thái ở 8,45-46: “45 Nhưng Tôi, vì Tôi nói
sự thật, các ông không tin Tôi. 46 Ai trong các ông chứng minh là Tôi sai lầm
về tội? Nếu Tôi nói sự thật, sao các ông không tin Tôi?” Trong ch. 14, Đức Giê-su đồng hoá Người với sự thật khi nói với Tô-ma
ở 14,6: “Chính Thầy là con đường và là sự thật và là
sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Đức Giê-su nói sự thật và chính Người là sự thật bởi vì lời Thiên Chúa
là sự thật. Đức Giê-su nói với Cha ở 17,17: “Xin Cha thánh
hiến họ (các môn đệ) trong sự thật, lời Cha là sự thật.” Sứ vụ của Đức Giê-su trong thế gian là làm chứng cho sự thật như Người
nói với Phi-la-tô ở 18,37b: “Chính ngài nói rằng Tôi là
Vua. Vì điều này Tôi đã sinh ra, và vì điều này Tôi đã đến thế gian để làm
chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi.” Các trích dẫn trên làm rõ nhị nguyên: thuộc về sự thật hay sự dối trá.
IV. Nhị nguyên trong đời
sống con người
Tin Mừng mời gọi độc giả lựa chọn để có sự sống
đích thực. Điều này được diễn tả qua năm kiểu nói nhị nguyên liên quan đến đời
sống con người: (1) có sự sống đời đời hay bị hư mất; (2) không bị lên án hay
bị lên án; (3) sống hay chết; (4) tự do hay nô lệ; (5) sinh ra bởi Thần Khí hay
sinh ra bởi xác thịt. Các đề tài nhị nguyên này dựa trên lựa chọn căn bản: tin
hay không tin vào Đức Giê-su, xem bài viết “Tin vào ai? Tin điều gì? Tin thế nào? (TM Gio-an)”.
1. Có sự sống đời đời hay bị hư mất
Ngay từ những chương đầu Tin Mừng, Đức
Giê-su tuyên bố ở 3,16-17: “16 Vì Thiên Chúa đã quá yêu mến thế gian, đến
nỗi đã ban Con Một, để bất cứ ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự
sống đời đời. 17 Vì Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để lên án thế gian, nhưng
để nhờ Người, thế gian được cứu.” Trong đoạn văn này xuất hiện hai ý
tưởng nhị nguyên: (1) Đức Giê-su đến để cứu thế gian chứ không phải để lên án
thế gian: tương phản nhị nguyên giữa “cứu” hay “lên án”; (2) để không bị hư
mất, cần tin vào Đức Giê-su. Động từ “hư mất” (apollumi) còn có nghĩa
“chết”. Trong mạch văn, “hư mất” có nghĩa “không có sự sống đời đời”, “không
được cứu”. Đây là nhị nguyên “sống” và “chết” theo nghĩa thần học.
2. Không bị lên án hay bị lên án
Nhị nguyên “không bị lên án” hay “bị lên án”
tuỳ thuộc vào “tin” hay “không tin”. Đức Giê-su mặc khải ở 3,18: “Ai tin vào Người thì không bị
lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên
án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.” Động từ “lên án” tiếng Hy-lạp là “krinô”, nghĩa thông thường là
“xét xử”, nhưng trong mạch 3,18, có nghĩa “bị xét xử”, theo nghĩa “bị lên án”,
“bị kết án” (être condamné). Vậy ai không tin vào Đức Giê-su thì ở trong
tình trạng bị lên án, bị hư mất, không có sự sống đời đời.
3. Sống và chết
Nhiều đoạn văn trong Tin Mừng cho thấy liên
hệ chặt chẽ giữa “tin” và “có sự sống đời đời”; giữa “không tin” và “chết”. Đức
Giê-su giới thiệu sứ vụ của Người ở 3,13-15: “13 Không ai
đã lên trời, ngoại trừ Đấng từ trời xuống là Con Người. 14 Như Mô-sê đã giương
cao con rắn trong hoang mạc, Con Người phải được giương cao như vậy, 15 để mọi
kẻ tin thì có sự sống đời đời trong
Người.” Song song với khẳng định này là lời chứng
của Gio-an Tẩy Giả nói về Đức Giê-su ở 3,36: “Ai tin vào
Con thì có sự sống đời đời; còn ai
không vâng phục Con thì sẽ không thấy
sự sống, nhưng sự thịnh nộ của Thiên Chúa ở lại trên kẻ ấy.” Trong diễn từ bánh sự sống ở ch. 6, Đức Giê-su mặc khải cho đám đông ý
định của Thiên Chúa ở 6,40: “Thật vậy, đây là ý muốn của
Cha Tôi: Tất cả những ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời, và chính Tôi sẽ làm cho người ấy sống lại
[trong] ngày sau hết.” Các trích dẫn trên làm rõ mặc khải
của Đức Giê-su: ai tin vào Người thì có sự sống đời đời.
Ngược lại, không tin dẫn đến sự chết. Người nói
với những người Do Thái ở 8,24: “Tôi đã nói với các ông là
các ông sẽ chết trong tội của các ông. Vì nếu các ông không tin rằng: Tôi Là, các
ông sẽ chết trong tội của các ông.” Nói cách khác, tin vào Đức Giê-su,
con người sẽ không chết nữa như Người nói với những người Do Thái ở 8,51: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Nếu ai giữ lời Tôi sẽ không thấy sự
chết đời đời.” Mặc khải quan trọng này được nói
đến cách long trọng trong ch. 11 khi Đức Giê-su nói với Mác-ta ở 11,25-26a: “25
Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy,
dù đã chết cũng sẽ được sống, 26a và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn
đời sẽ không chết.” Cái chết thể lý của thân phận làm
người không ngăn cản người tin sống sự sống đời đời. Ai tin vào Đức Giê-su “muôn đời sẽ không chết” (11,26a), “sẽ
không thấy sự chết đời đời” (8,51b). Vậy nhị nguyên “sống” hay
“chết” tuỳ thuộc vào quyết định “tin” hay “không tin” vào Đức Giê-su. Nhị
nguyên này trình bày một trong những điểm thần học cốt yếu của Tin Mừng.
4. Tự do hay nô lệ
Nhị nguyên “tự do” hay “nô lệ”, được trình bày
trong tranh luận giữa Đức Giê-su và những người Do Thái ở đoạn văn 8,31-36. Đức
Giê-su mời gọi họ trở thành môn đệ thực sự của Người để được tự do thực sự, được
giải phóng bởi sự thật. Người nói với họ ở 8,31b-32: “31b Nếu các ông ở lại
trong lời của Tôi các ông thực sự là môn đệ của Tôi, 32 các ông sẽ biết sự thật
và sự thật sẽ giải phóng các ông.” Nhưng họ không cần được giải phóng vì nghĩ là
không ở trong tình trạng nô lệ. Họ nói với Đức Giê-su ở 8,33: “Chúng tôi là
dòng dõi Áp-ra-ham và chúng tôi không làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao Ông lại
nói rằng: ‘Các ông sẽ trở thành những người tự do’?” Đức
Giê-su cho biết thế nào là nô lệ ở 8,34-36: “34 A-men, a-men Tôi nói cho các
ông: Bất kỳ ai làm sự tội là người nô lệ cho tội. 35 Người nô lệ không ở lại
trong nhà luôn mãi, người con ở lại luôn mãi. 36 Vậy nếu người Con giải phóng
các ông, các ông thực sự là những người tự do.”
Những
người Do Thái cho rằng họ là “con cháu Áp-ra-ham” (8,39a), nhưng theo Đức
Giê-su, Áp-ra-ham không phải là cha của họ (8,39-40) vì họ đang tìm giết Đức
Giê-su (8,37.40). Việc làm đen tối này là “làm sự tội” (8,34b) và làm cho họ trở
thành “nô lệ cho tội” (8,34c) và thuộc về quỷ (8,44). Vậy những người Do Thái
cần được người Con giải phóng để thực sự là những người tự do. “Người Con” ở 8,36
là người sẽ giải phóng mọi người bằng sự thật (8,32). Điều kiện để được tự do, được
giải phóng khỏi mọi hình thức nô lệ là “ở lại trong lời” Đức Giê-su (8,31a) để
trở thành “môn đệ thực sự” của Người (8,31b). Nhị nguyên “tự do - nô lệ” được xác
định qua lựa chọn: nghe lời Đức Giê-su thì được tự do, được Người giải phóng;
thù nghịch và chống lại Người là người nô lệ cho tội. Đó là tội không tin vào
Đức Giê-su; tội này dẫn đến sự chết, sự hư mất.
5. Sinh ra bởi Thần Khí hay sinh ra bởi xác
thịt
Hình thức nhị nguyên Thần Khí và xác thịt
trong Tin Mừng diễn tả qua kiểu nói: “sinh ra bởi Thần
Khí” và “sinh ra bởi xác thịt” (3,6). Như đã trình bày, điều kiện
để con người sống những thực tại thượng giới là “được sinh ra bởi trên”, “được sinh
ra một lần nữa” (3,3.7). Đức Giê-su giải thích cho Ni-cô-đê-mô ở 3,5: “A-men, a-men, Tôi nói cho ông: Nếu ai không được sinh ra bởi nước và Thần
Khí, thì không thể bước vào vương quốc Thiên Chúa.” Sau đó Người phân biệt giữa “sinh ra bởi Thần
Khí” và “sinh ra bởi xác thịt” ở 3,6: “Điều gì sinh ra bởi xác thịt (sarkos) là xác thịt (sarx); điều gì sinh ra bởi Thần Khí (pneumatos) là thần khí (pneuma).” Lời này soi sáng thắc mắc của
Ni-cô-đê-mô ở 3,4: “Làm sao một người có thể được sinh ra khi đã già? Chẳng lẽ
có thể trở vào lòng mẹ của mình lần thứ hai để được sinh ra sao?” Đây là cách
lập luận theo kiểu “sinh ra bởi xác thịt” (3,6a), sự sinh hạ này không cho phép
“bước vào vương quốc Thiên Chúa” (3,5b).
Trong ch. 6, Đức Giê-su nói với các môn đệ về
đối lập giữa “thần khí” và “xác thịt” ở 6,63. Thật vậy, sau khi nghe diễn từ bánh
sự sống (6,25-59), nhiều môn đệ Đức Giê-su xầm xì ở 6,60b: “Lời này chướng tai quá! Ai có thể nghe nổi?” Biết điều này, Đức Giê-su nói với họ ở 6,61b-64a: “61b
Điều đó làm anh em vấp ngã sao? 62
Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi Người đã ở trước kia thì sao? 63 Thần khí thì làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì. Những
lời chính Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. 64a Nhưng trong
anh em có một số người không tin.” Lời Đức Giê-su ở 6,63 về tương phản giữa
thần khí và xác thịt nhằm giải thích lời xầm xì ở 6,60b. Nhiều môn đệ không đón nhận và không tin vào lời Đức Giê-su, vì đã “xét đoán theo xác thịt
(sarka)” (theo người phàm) như Đức Giê-su đã nói với những người
Pha-ri-sêu ở 8,15-16: “15 Các ông, các ông xét đoán theo người phàm (sarka), phần Tôi, Tôi không xét
đoán ai cả. 16 Mà nếu chính Tôi xét đoán, sự xét đoán của Tôi là thật, vì không
chỉ một mình Tôi, nhưng Tôi và Cha, Đấng đã sai Tôi.”
Từ “sarx”
(xác thịt, xác phàm) trong Kinh Thánh chỉ về thân phận làm người mong manh, có
thể chết bất cứ lúc nào. Vì thế, xác thịt, xác phàm (sarx) cần đến thần
khí (penuma) làm cho sống (6,63a) để nghe và hiểu lời Đức Giê-su, bởi vì
lời của Người là “thần khí và là sự sống” (6,63b). Vậy “xét đoán theo xác thịt (sarka)”
(8,15) là khép lòng lại trước nguồn sự sống là Thần Khí. Hậu quả là nhiều môn đệ
đã thôi không làm môn đệ Đức Giê-su nữa như người thuật chuyện cho biết ở 6,66:
“Từ lúc đó, nhiều môn đệ của Người bỏ đi và không còn đi với Người nữa.”
Tin Mừng còn dùng từ
“sarx” (xác thịt, xác phàm) để diễn tả thân phận làm người. Tác giả
khẳng định trong lời tựa ở 1,14a: “Lời (Logos) đã trở thành người phàm (sarx) và cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người.” Câu này dùng từ “sarx” để nói về mầu nhiệm Đức
Giê-su nhập thể làm người. Trong ch. 6, Đức Giê-su khẳng định với đám đông ở 6,54:
“Ai ăn thịt (sarka) Tôi và
uống máu Tôi, thì có sự sống đời đời, và Tôi sẽ làm cho người ấy sống lại vào
ngày sau hết.” Trong các câu trên,
không có đối lập giữa xác thịt với thần khí. Tóm lại, Đức Giê-su là Lời làm người
phàm (sarx) để mặc khải ý định của Thiên Chúa (6,40) và ban tặng thịt (sarx)
và máu của Người cho nhân loại (6,54a). Đây là của ăn, của uống đích thực
(6,55) đem lại sự sống đời đời cho người tin (6,58b).
V. Nhị nguyên nơi người tin
Trong Tin Mừng, các
môn đệ Đức Giê-su thường phải lựa chọn một trong hai điều đối nghịch nhau. Phần này bàn về nhị nguyên trong đời sống người tin qua ba mục: (1) sinh
hoa trái hay không sinh hoa trái, (2) ở lại hay không ở lại trong Đức Giê-su,
(3) không thuộc về hay thuộc về thế gian.
1. Sinh hoa trái hay không sinh hoa trái
Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,1-2: “1 Chính Thầy là cây nho đích thật, và Cha của Thầy là người trồng nho.
2 Tất cả những cành trong Thầy mà không
sinh hoa trái thì Người chặt đi; và
tất cả những cành sinh hoa trái, Người cắt tỉa cho nó để nó sinh hoa trái nhiều
hơn.” Đây là dụ ngôn nối kết dân Ít-ra-en với
Đức Giê-su. Trong Cựu Ước, Đức Chúa là người trồng nho và vườn nho là dân
Ít-ra-en (Is 5,7). Với Đức Giê-su, từ nay vườn nho Đức Chúa gồm ba yếu tố: (1)
Đức Giê-su là cây nho đích thật (15,1a); (2) Chúa Cha là người trồng nho
(15,1b), và (3) dân Ít-ra-en là cành nho của cây nho đích thật (15,2). Tất cả cành
nơi Đức Giê-su mà “không sinh hoa trái” (15,2a) gợi đến những ai trong dân Ít-ra-en, cụ thể là những kẻ chống đối,
đã không tin vào Đức Giê-su. Những cành nho không sinh hoa trái này sẽ bị chặt
đi, nghĩa là không còn gắn kết và hiệp thông với cây nho đích thực nữa. Còn những
cành “sinh hoa trái” (15,2b) là
các môn đệ, là những người tin vào Đức Giê-su. Ý tưởng nhị nguyên diễn tả lựa chọn
giữa hai con đường: sinh hoa trái thì có sự sống, không sinh hoa trái thì sẽ bị
chặt đi, bị tách rời khỏi nguồn sự sống.
Đối với các môn đệ Đức Giê-su, sinh hoa trái
là chưa đủ mà còn cần phải đứng vững trong những thử thách. Đề tài này được
trình bày trong dụ ngôn tiếp theo (15,4-7) cũng theo hướng nhị nguyên: ở lại hay không ở lại trong Đức Giê-su.
2. Ở lại hay không ở lại trong Đức
Giê-su
Trong dụ ngôn thứ hai (15,4-7), vấn đề không
còn là “sinh hoa trái” hay “không sinh hoa trái” như trong dụ ngôn thứ nhất (15,1-3),
nhưng là “ở lại” hay “không ở lại” trên cây nho đích thực. Đức Giê-su nói với
các môn đệ ở 15,4-7: “4 Anh em hãy ở lại trong Thầy, như
Thầy trong anh em. Như cành nho không thể sinh hoa trái tự nó nếu không ở lại
trong cây nho, anh em cũng không, nếu anh em không ở lại trong Thầy. 5 Thầy là
cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì
không có Thầy, anh em không thể làm gì được. 6 Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và bị
khô héo. Người ta thu lượm chúng, bỏ vào lửa và chúng bị đốt cháy. 7 Nếu anh em
ở lại trong Thầy và những lời của Thầy ở lại trong anh em, anh em hãy xin điều
anh em muốn và chúng sẽ xảy đến cho anh em.”
Trong
đoạn văn trên ý tưởng nhị nguyên là rõ ràng: gắn kết với Đức Giê-su thì có sự
sống, tách khỏi Đức Giê-su sẽ bị chết khô. Ai ở lại trong Đức Giê-su và Người ở
lại nơi người ấy thì “sinh nhiều hoa trái” (15,5b). Ngược lại, ai không ở lại
trong Người sẽ bị quăng ra ngoài, bị khô héo và bị đốt cháy (15,6). Trong thực
tế, các môn đệ thường ở trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan. Nếu lựa chọn ở
lại trong Đức Giê-su và thuộc về Người thì họ sẽ bị thế gian thù ghét, bị bách
hại như Đức Giê-su đã cho họ biết ở 15,18: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy
biết rằng nó đã ghét Thầy trước”; và ở 15,20c: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng
sẽ bắt bớ anh em.” Các môn đệ có nguy cơ mất mạng sống vì niềm tin như Đức
Giê-su nói với họ ở 16,2b: “Sẽ đến giờ, kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng
thờ Thiên Chúa.” Ngược lại, nếu các môn đệ không ở lại trong Đức Giê-su, nghĩa
là không thuộc về Người mà thuộc về thế gian thì họ sẽ được thế gian yêu mến
(15,19), không bị thù ghét và bách hại. Nhưng giá phải trả là họ sẽ không có sự
sống đời đời, họ sẽ “bị quăng ra ngoài như cành nho và bị khô héo. Người ta thu
lượm chúng, bỏ vào lửa và chúng bị đốt cháy” (15,6b).
Đứng
trước thế lựa chọn lưỡng nan như trên, vấn đề không phải là lựa chọn giữa
“sống” hay “chết” mà là lựa chọn phẩm chất của sự sống và cái chết. Trung tín
với niềm tin vào Đức Giê-su cho đến chết là sống trọn vẹn sự sống đời đời ngay
bây giờ. Đức Giê-su đề nghị các môn đệ lựa chọn con đường này, Người mời gọi họ
quý trọng sự sống đời đời bằng cách ở lại trên cây nho đích thật. Đó là lựa
chọn thuộc về Đức Giê-su chứ không thuộc về thế gian.
3. Không thuộc về hay thuộc về thế gian
Khi trở thành môn đệ
Đức Giê-su, người tin không thuộc về thế gian thù ghét. Đức Giê-su nói với họ ở
15,18-19: “18 Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết
rằng nó đã ghét Thầy trước. 19 Nếu anh em thuộc về thế gian, thế gian đã yêu
thích cái gì là của riêng nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và chính
Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian,
vì điều này, thế gian ghét anh em.” Để nói về sự khác
biệt giữa các môn đệ và thế gian thù ghét, Đức Giê-su dùng kiểu nói “không
thuộc về thế gian” khi Người thưa với
Cha ở 17,14: “Con đã ban cho họ lời của Cha và thế gian đã
ghét họ vì họ không thuộc về thế gian cũng như chính Con không thuộc về thế
gian.” Các trích dẫn trên
cho thấy “không thuộc về thế gian” nghĩa là “bị thế gian thù ghét”. Đề tài nhị
nguyên “thuộc về ai” ở đây, song song với đề tài “thuộc về Thiên Chúa” hay
“thuộc về quỷ” đã trình bày ở trên. Về các nghĩa từ “thế gian”, xem bài viết: “Thế gian (kosmos) là gì, là ai? (TM Gio-an).”
VI. Nguồn gốc và ý nghĩa thần
học
Phần này tìm hiểu
nguồn gốc và ý nghĩa thần học của nhị nguyên qua hai mục: (1) nhị nguyên trong Tin
Mừng đến từ đâu?; (2) ý nghĩa thần học của nhị nguyên trong Tin Mừng.
1. Nhị nguyên trong Tin Mừng đến từ đâu?
Vấn đề nguồn gốc nhị nguyên trong Tin Mừng khá
phức tạp. Có thể tóm tắt như sau: nhị nguyên trong Tin Mừng chịu ảnh hưởng văn
hoá Hy-lạp, đồng thời lấy cảm hứng từ Cựu Ước (x. G 24,13-17; Is 29,15; Gr
49,9; Tv 11,2…), từ văn chương giữa hai Giao Ước, Qumran (intertestamentaires,
x.. 1 Hén 41,8; 58,6; 2 Ba 18,2…) và từ thần học Tân Ước (x. Ep 5,8-14…). Phần
sau trình bày ý kiến một số tác giả và những tranh luận về đề tài này qua ba điểm:
(1) nhị nguyên và ngộ đạo thuyết; (2) nhị nguyên và Qumran; (3) nhị nguyên và
thần học Phao-lô.
(1) R. Bultmann cho rằng: Tin Mừng thứ tư chịu
ảnh hưởng của phái ngộ đạo (gnose). Tác giả viết: “Giải thích về xét xử
như là sự phân chia giữa ánh sáng và bóng tối là dữ liệu truyền thống của ngộ
đạo thuyết.” (Trích dẫn lấy trong G. Stemberger, La
symbolique du bien et du mal selon saint Jean, (Parole de Dieu), Paris, Le Seuil, 1970, p.
29). Hiện nay, giả thuyết này bị đặt thành vấn đề. Nhiều tác giả ngày nay nghi
vấn về giá trị của lập trường này, thậm chí có tác giả bác bỏ giả thuyết trên.
(Cf. J. Zumstein, “L’évangile selon Jean”, dans D. Marguerat, (éd.), Introduction
au Nouveau Testament, 2000, p. 357-360).
Theo G. Stemberger, “Ý tưởng về sự xét xử thiếu vắng trong phái ngộ đạo. Hơn
nữa, khái niệm về ánh sáng và bóng tối - cho dù ngôn ngữ giống nhau - hoàn toàn
khác nhau so với Tin Mừng thứ tư.” (G. Stemberger, La symbolique du bien et
du mal selon saint Jean, 1970, p.
29). Ngay cả kiểu nói “ảnh hưởng phái ngộ đạo” cũng phải xem lại như trong nhận
định của J. Zumstein: “Những tài liệu văn chương ngộ đạo thuyết cổ xưa nhất
chúng ta có hiện nay xuất hiện vào thế kỷ II… Nhận định này xác minh cho Tin
Mừng Gio-an: Những tài liệu ngộ đạo thuyết, có liên hệ chặt chẽ với Tin Mừng
Gio-an…, xuất hiện vào thế kỷ II, nghĩa là sau khi Tin Mừng được biên soạn.”
(J. Zumstein, “L’évangile selon Jean”, dans D. Marguerat, (éd.), Introduction
au Nouveau Testament, 2000, p.
360).
J.
Zumstein cho rằng lối hành văn nhị nguyên trong Tin Mừng thứ tư nằm trong môi
trường văn hóa Hy-lạp. Tác giả viết: “Tin Mừng Gio-an được đặt ở ngã tư của các
thế giới tôn giáo khác nhau, nên chứa đựng những ngôn ngữ và những cách miêu tả
rất đặc biệt.” (J. Zumstein, “L’évangile selon Jean”, dans D. Marguerat, (éd.),
Introduction au Nouveau Testament, 2000,
p. 357). Trước vấn đề nhị nguyên như trên, B. Lindars quay về phía Do Thái giáo
và giáo huấn Ki-tô giáo trong thế giới Hy-lạp hơn là ngộ đạo thuyết. (Cf.
B. Lindars, The Gospel of John,
(NCeB), London, Oliphants, 1972, p. 147-148).
(2) Trong văn chương Qumran có sự đối lập giữa
“Hoàng tử ánh sáng” (le Prince des lumières) và “Thiên thần bóng tối” (l’Ange
de ténèbres). Sách Luật Cộng Đoàn (la Règle de la Communauté) ở Qumran
viết: “Một nguồn ánh sáng là nguồn gốc của Chân Lý (Vérité), và một
nguồn bóng tối là nguồn gốc của Đồi Bại (Perversion). Trong tay của
Hoàng tử ánh sáng là sự kiểm soát hoàn toàn trên tất cả con cái sự công chính:
Họ bước đi trên những con đường của ánh sáng. Trong tay của Thiên thần bóng tối
là sự kiểm soát hoàn toàn trên con cái sự đồi bại: chúng bước đi trên những con
đường của bóng tối” (1QS III,19b-21a, trích dẫn lấy trong A. Dupont-Sommer; M. Philonenko,
(dir.), La Bible, écrits intertestamentaires, (Bibliothèque
de la Pléiade), Paris, Gallimard, 1987). Trích dẫn trên cho thấy sự đối lập
giữa “Chân lý” (Vérité) và “Đồi bại” (Perversion), trong khi đối
lập trong Tin Mừng Gio-an là “yêu mến bóng tối” và “đến với ánh sáng”; “làm sự
dữ” và “làm sự thật” (Ga 3,19-21)… Theo các tác giả M.-É. Boismard và A.
Lamouille: “Có nhiều liên hệ hiển nhiên giữa bản văn Gio-an và tài liệu Qum-ran.”
(M.-É. Boismard;
A. Lamouille, Synopse des quatre évangiles, t. III, 1977, p.
123-124).
(3) Theo
M.-É. Boismard và A. Lamouille, ý tưởng trong đoạn văn Ga 3,18-21 chịu ảnh
hưởng thần học Phao-lô. Hai tác giả trên viết: “Cũng phải chấp nhận ảnh hưởng
của Phao-lô trong Tin Mừng Gio-an […] Đức Ki-tô được đồng hóa với ánh sáng, cách
minh nhiên ở Ep 5,14b, cách mặc nhiên ở Ga 3,19a. Sự đối lập ‘ánh sáng - bóng
tối’ phân chia con người thành hai nhóm, trong liên hệ với những công việc họ
thực hiện (Ep 5,8a.11; Ga 3,19b.20a.21a). Những việc xấu xa của mỗi người sẽ bị
‘tố cáo’, những việc tốt sẽ được ‘bày tỏ’ (Ep 5,11.13; Ga 3,20b.21b).” (M.-É. Boismard; A. Lamouille, Synopse des
quatre évangiles, t.
III, 1977, p. 116).
Tóm
lại, đề tài “nhị nguyên” trong Tin Mừng Gio-an có thể chịu ảnh hưởng từ nhiều
phía. Tuy nhiên, do thiếu tài liệu đáng tin cậy, người ta không biết cụ thể
những yếu tố trên ảnh hưởng thế nào đến nhị nguyên trong Tin Mừng. Điều quan trọng
hơn là tìm hiểu ý nghĩa thần học của nhị nguyên.
2. Ý nghĩa thần học của nhị
nguyên trong Tin Mừng
Trong Tin Mừng, đồng hoá giữa ánh sáng và Đức
Giê-su đã loại trừ những cách hiểu “ánh sáng” theo nghĩa
siêu hình học (métaphysique) hay vũ trụ luận (cosmologie) theo
quan niệm triết học Hy-lạp. G. Stemberger viết: “Vấn đề không phải là nhị
nguyên vũ trụ luận (dualisme cosmique) nhưng là nhị nguyên đạo đức học (dualisme
éthique) tuỳ thuộc quyết định của con người.” (G. Stemberger,
La symbolique du bien et du mal selon saint Jean, p. 46).
Tác giả này phân biệt “nhị nguyên đạo đức học” trong Tin Mừng với “nhị nguyên
vũ trụ luận” trong triết học. Theo chúng tôi, kiểu nói “nhị nguyên thần học” thích
hợp hơn để nói về nhị nguyên trong Tin Mừng, vì các yếu tố nhị nguyên vừa diễn
tả thần học, vừa trình bày mặc khải.
Nhị nguyên trong Tin Mừng nhằm xây dựng thần học
trong viễn cảnh “cánh chung đã thực hiện” (người tin có sự sống đời đời ngay ở
đời này), trong đó những yếu tố đối lập làm bộc lộ uy quyền tối thượng của
Thiên Chúa trước sự từ chối của con người. Quả thế, cho dù con người từ chối
ánh sáng, không đến với ánh sáng và ghét ánh sáng, thì tình yêu của Thiên Chúa
dành cho thế gian và ánh sáng của Người là Đức Giê-su vẫn chiếu soi thế gian
với tất cả sức mạnh của nó. Với ngôn ngữ nhị nguyên dựa trên những thực tại phổ
quát (ánh sáng – bóng tối, thượng giới – hạ giới...), nhị nguyên thần học Tin
Mừng Gio-an liên quan đến mọi người. Những ai đã tin thì được mời gọi ở lại
trong ánh sáng, những ai chưa tin thì được mời gọi nhận ra Đức Giê-su là ánh sáng
để có sự sống đời đời. Tất cả mọi người được mời gọi “làm sự thật” và “đến với
ánh sáng” (3,21a).
Kết luận
Bài viết đã trình bày các yếu tố nhị nguyên trong
Tin Mừng Gio-an: nhị nguyên lấy trong thiên nhiên (ánh sáng và bóng tối, ngày và
đêm); nhị nguyên xét theo không gian (thượng giới và hạ giới); nhị nguyên trong
tương quan thuộc về ai (thuộc về Thiên Chúa hay thuộc về quỷ) và thuộc về điều
gì (thuộc về sự thật hay thuộc về sự dối trá); nhị nguyên trong đời sống con
người và nhị nguyên trong đời sống các môn đệ.
Các yếu tố nhị nguyên được dùng để trình bày xung
đột giữa Đức Giê-su (ánh sáng) và những kẻ chống đối Người (bóng tối); đồng thời
gợi đến đối lập giữa Thiên Chúa và quỷ (Xa-tan), giữa Đức Giê-su và thủ lãnh
thế gian này. Tuy nhiên, những yếu tố nhị nguyên không trên cùng một bình diện.
Bóng tối chỉ là sự khước từ đón nhận ánh sáng. Nhị nguyên trong Tin Mừng Gio-an
không theo nghĩa bản thể (ontologie) của triết học, nhưng là nhị nguyên thần
học. Qua đó, sự can thiệp của Thiên Chúa được đề cao. Đức Giê-su xuất hiện đã
dẫn con người vào vụ kiện lớn giữa ánh sáng và bóng tối, trong đó mỗi người cần
lựa chọn đứng về phía nào, thuộc về Thiên Chúa (8,47) hay thuộc về quỷ (8,44). Qua
các yếu tố nhị nguyên, Tin Mừng mô tả cách đáp trả của con người trước lời mời gọi
của Đức Giê-su.
Nhị nguyên Tin Mừng trình bày thần học cách nghịch
lý với hai cấp độ ý nghĩa. Về mặt lịch sử, quyền lực bóng tối đã loại trừ được
ánh sáng, Đức Giê-su đã bị đóng đinh và chết trên thập giá. Nhưng trên bình diện
mặc khải, thập giá là nơi Đức Giê-su chiến thắng quyền lực bóng tối. Thực ra,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn tiếp diễn trong đời các môn đệ, nhưng người
tin xác tín rằng Đức Giê-su “đã chiến thắng thế gian” (16,33) và “thủ lãnh thế
gian này đã bị xét xử” (16,11)./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2014/03/nhi-nguyen-dualisme-trong-tin-mung-gio.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét