Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 10 tháng 04 năm 2020.
Nội dung
I. Lần 1 (2,23–3,12), biết là
chưa biết Đức Giê-su
1. Bản văn 2,23–3,12 và bối cảnh văn chương
2. Đêm tối bên ngoài và trong tâm trí
II. Lần 2 (7,48-52), bênh vực Đức
Giê-su
1. Những kẻ chống đối Đức Giê-su
2. Đòi công lý cho Đức Giê-su
3. Chưa công khai đứng về phía Đức Giê-su
III. Lần 3 (19,39-40), tẩm liệm
Đức Giê-su
1. Trình thuật tẩm liệm và mai táng (19,38-42)
2. Giu-se A-ri-ma-thê
3. Ni-cô-đê-mô
Kết luận
Dẫn nhập
Nhân vật Ni-cô-đê-mô xuất hiện ba lần trong
Tin Mừng Gio-an và ở những nơi đặc biệt: ở đầu (3,1-12), ở giữa (7,48-52) và ở
cuối Tin Mừng (19,39-40). Qua nhân vật này, tác giả trình bày cho độc giả một
khuôn mẫu về hành trình “đến với” và “nói với” Đức Giê-su; hành trình từ “bóng
tối” đến “ánh sáng” theo nghĩa đen và nghĩa thần học của cặp từ này.
Trong ba lần Ni-cô-đê-mô xuất hiện, lần
đầu được thuật lại chi tiết hơn cả, ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm và đối thoại
với Người. Trong hai lần xuất hiện tiếp theo, tác giả đều nhắc lại cuộc gặp gỡ
đầu tiên vào ban đêm này. Bài viết phân tích ba lần Ni-cô-đê-mô xuất hiện trong
Tin Mừng: (I) lần 1 (2,23–3,12), biết là chưa biết Đức Giê-su; (II) lần 2 (7,48-52), bênh vực Đức Giê-su ; (III) lần 3 (19,39-40),
tẩm liệm Đức Giê-su.
I. Lần 1 (2,23–3,12), biết là
chưa biết Đức Giê-su
Có nhiều đề tài trong đoạn văn đối thoại
giữa Đức Giê-su và Ni-cô-đê-mô (3,1-12). Phần này trình bày (1) bản văn
2,23–3,12 và bối
cảnh văn chương, sau đó phân
tích đề tài (2) đêm tối bên ngoài và trong tâm trí.
1. Bản văn 2,23–3,12 và bối cảnh văn chương
Nội dung phần này gồm ba điểm: (1) bản văn
Ga 2,23–3,12; (2) tương quan giữa 3,1-12 và 3,13-21; (3) nối
kết giữa 2,23-25 và 3,1-2.
(1) Trình thuật về Ni-cô-đê-mô (3,1-12) nối
kết chặt chẽ với đoạn văn trước đó (2,23-25).
Dưới đây trích dẫn đoạn văn 2,23–3,12 (xem
Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ):
2,23 Trong lúc Người (Đức Giê-su) ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm. 24 Nhưng Đức Giê-su, chính Người không tin họ, vì Người biết tất cả, 25 và Người không cần có ai làm chứng về con người, vì chính Người biết có gì nơi con người.
3,1 Có một người trong những
người Pha-ri-sêu, tên ông ấy là Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của những người Do Thái. 2 Ông này đến gặp Người ban đêm và
nói với Người: “Thưa Ráp-bi, chúng tôi biết rằng: Ngài là một vị Thầy đến từ
Thiên Chúa, vì không ai có thể làm được những dấu lạ Ngài làm, nếu Thiên Chúa
không ở với người ấy.” 3 Đức Giê-su trả lời và nói với ông ấy: “A-men, a-men,
Tôi nói cho ông: Nếu ai không được sinh ra một lần nữa, thì không thể thấy vương
quốc Thiên Chúa.” 4 Ni-cô-đê-mô nói với Người: “Làm sao một người có
thể được sinh ra khi đã già? Chẳng lẽ có thể trở vào lòng mẹ của mình lần thứ
hai để được sinh ra sao?” 5 Đức Giê-su trả lời: “A-men, a-men, Tôi
nói cho ông: Nếu ai không được sinh ra bởi nước và Thần Khí, thì không thể bước
vào vương quốc Thiên Chúa. 6 Điều gì sinh ra bởi xác thịt là xác thịt; điều gì
sinh ra bởi Thần Khí là thần khí. 7 Ông đừng ngạc nhiên vì Tôi đã nói với ông:
‘Các ông cần phải được sinh ra một lần nữa.’ 8 Gió muốn thổi ở đâu, ông nghe
tiếng của nó, nhưng ông không biết nó từ đâu đến và đi đâu. Mọi kẻ được sinh ra
bởi Thần Khí thì cũng như vậy.”
9 Ni-cô-đê-mô trả lời và nói với Người:
“Làm sao những điều ấy có thể xảy ra được?” 10 Đức Giê-su trả lời và nói với
ông: “Ông là bậc thầy của Ít-ra-en, mà không biết những điều ấy sao? 11 A-men,
a-men, Tôi nói cho ông: Điều chúng tôi đã biết, chúng tôi nói và điều chúng tôi
đã thấy, chúng tôi làm chứng, và lời chứng của chúng tôi, các ông không đón nhận.
12 Nếu những chuyện dưới đất Tôi nói với các ông mà các ông không tin, thì nếu
Tôi nói với các ông về những chuyện trên trời làm sao các ông tin?”
(2) Đối thoại giữa Đức Giê-su và
Ni-cô-đê-mô liên quan đến mặc khải về được sinh ra một lần nữa, bởi trên (3,3.7),
bởi nước và Thần Khí (3,5). Đối thoại kết thúc bằng sự không biết của
Ni-cô-đê-mô, như Đức Giê-su nói với ông ở 3,10: “Ông là bậc thầy của Ít-ra-en,
mà không biết những điều ấy sao?” Phần tiếp theo là diễn từ độc thoại của Đức
Giê-su (3,11-21). Đối thoại với Ni-cô-đê-mô kết thúc ở 3,12 vì trong câu này Đức
Giê-su nói trực tiếp với ông qua đại từ “các ông” (số nhiều). Ni-cô-đê-mô đại
diện giới lãnh đạo Do Thái vì ông thuộc nhóm
họ (3,1b). Từ 3,13 đến hết diễn từ (3,21), Ni-cô-đê-mô không được nhắc tới
nữa, độc thoại của Đức Giê-su trong đoạn văn 3,13-21 dành cho độc giả.
(3) Người ta thường đọc chuyện Ni-cô-đê-mô
từ câu 3,1, tuy nhiên cách đọc này làm lu mờ ý nghĩa bản văn. Bốn chi tiết buộc
nối kết 3,1-12 với 2,23–25: (a) tên gọi Đức Giê-su; (b) danh từ “dấu lạ”; (c) danh
từ “con người”; (d) động từ “biết”.
(a) Tên gọi “Đức Giê-su” không xuất hiện ở
3,2a: “Ông này (Ni-cô-đê-mô) đến gặp Người ban đêm và nói với Người:...”. Để
biết đại từ “người” là ai, cần đọc đoạn văn trước đó. Danh xưng “Đức Giê-su” (Iêsous)
xuất hiện ở 2,24: “Đức Giê-su (Iêsous) không tin họ...” Vậy nếu đọc từ
3,1 độc giả sẽ không biết Ni-cô-đê-mô đến gặp ai, nên cần nối kết 3,1-12 với
2,23-25. Một số bản dịch thêm tên gọi “Đức Giê-su” vào 3,2 làm mất nối kết với
2,23-25 và làm mất những nét độc đáo của đoạn văn 3,1-12.
(b) Người thuật chuyện kể ở 2,23b: “Nhiều
kẻ đã tin vào danh của Người (Đức Giê-su) khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm.”
Ở 3,2b Ni-cô-đê-mô nói với Đức Giê-su: “Không ai có thể làm được những dấu lạ
Ngài làm, nếu Thiên Chúa không ở với người ấy.” Danh từ “dấu lạ” (to sêmeion)
và động từ “làm” (poieô), nối kết 3,2 với 2,25.
(c) Danh từ “anthrôpos” (con người,
người) xuất hiện ở 2,25: “Người (Đức Giê-su) không cần có ai làm chứng về con
người (anthrôpou), vì chính Người biết có gì nơi con người (anthrôpôi)”,
và ở 3,1: “Có một người (anthrôpos) trong những người Pha-ri-sêu, tên
ông ấy là Ni-cô-đê-mô.” Vậy từ này nối kết 2,24 với 3,1. Ni-cô-đê-mô là “người” (3,1), còn Đức Giê-su thì biết “có gì nơi con người” (2,24), nên Người biết là Ni-cô-đê-mô không biết
(3,10).
(d) Về động từ “biết”, Đức Giê-su “biết tất
cả” (2,24b) và “biết có gì nơi con người” (2,25b). Ni-cô-đê-mô khẳng định ở
3,2a: “Thưa Ráp-bi, chúng tôi biết rằng:...”; đến cuối đoạn văn Đức Giê-su nói
với ông ở 3,10: “Ông là bậc thầy của Ít-ra-en, mà không biết những điều ấy
sao?” Nét châm biếm giữa “biết” và “không biết” giúp độc giả hiểu thế nào là biết
thực sự. Đoạn văn 3,1-12 minh hoạ sự “biết” của Đức Giê-su nói đến ở 2,24-25.
Tóm lại, đoạn văn 2,23–3,12 đặt song song việc
nhiều người “tin” vào Đức Giê-su (2,23) và Ni-cô-đê-mô “biết” Người đến từ
Thiên Chúa (3,2). Tuy nhiên, hành động “tin” và “biết” này chưa trọn vẹn, câu
chuyện mời gọi độc giả lắng nghe Đức Giê-su để thực sự biết và tin. Xem YÊU và GHÉT, phần II, tr. 20-26.
2. Đêm tối bên ngoài và trong tâm trí
Bản văn không cho biết tại sao Ni-cô-đê-mô
đến gặp Đức Giê-su ban đêm, nhưng mạch văn cho phép hiểu ông làm thế để tránh
xung đột với những người Pha-ri-sêu và giới lãnh đạo Do Thái. Họ chống đối Đức
Giê-su mà Ni-cô-đê-mô lại thuộc nhóm Pha-ri-sêu và là một thủ lãnh của những người
Do Thái (3,1). Bóng tối ban đêm gợi đến tối tăm trong tâm trí Ni-cô-đê-mô, vì ông không hiểu lời Đức Giê-su. Trong
suốt cuộc đối thoại, ông không nói gì khác ngoài việc đặt hai câu hỏi: một ở đầu
(3,4), một ở cuối đoạn văn (3,9). Nghĩa là ông thực sự chưa hiểu lời Đức Giê-su.
Đối diện với mặc khải, Ni-cô-đê-mô vừa ở trong bóng tối khách quan (ban đêm),
vừa ở trong tình trạng u tối chủ quan: hiểu lầm (3,4), chưa hiểu, chưa biết (3,9).
Trong bối cảnh đêm tối theo nghĩa đen và nghĩa
bóng như trên, điểm tích cực nơi nhân vật Ni-cô-đê-mô là ông đã “đến với” Đức
Giê-su và đã “nói với” Người (3,2). Lời Đức Giê-su trở thành lời khai sáng, lời
soi sáng cho Ni-cô-đê-mô và cho độc giả. Đức Giê-su hướng dẫn Ni-cô-đê-mô, và
qua câu chuyện tác giả dẫn độc giả đi từ sự tối tăm tâm trí đến ánh sáng sự
hiểu biết: biết thế nào là được sinh ra bởi trên, bởi nước và Thần Khí (3,3a.5a)
để thấy và bước vào Nước Thiên Chúa (3,3b.5b).
Lần thứ nhất Ni-cô-đê-mô xuất hiện trong
Tin Mừng đã khởi đầu một cuộc hành trình. Ông thắc mắc và được Đức Giê-su giải
thích nhưng bản văn không cho biết ông phản ứng thế nào. Có lẽ ông cần thời
gian để suy nghĩ. Đúng vậy, sau 5 chương (ch. 3 đến ch. 7) ông lại xuất hiện để
bênh vực Đức Giê-su (7,48-52).
II. Lần 2 (7,48-52), bênh vực
Đức Giê-su
Ni-cô-đê-mô xuất hiện lần thứ hai ở giữa
sách Tin Mừng (7,48-52). Lần này độc giả thấy lập trường của Ni-cô-đê-mô trước những
kẻ chống đối Đức Giê-su. Phần này trình bày ba điểm: (1) những kẻ chống đối Đức
Giê-su; (2) đòi công lý cho Đức Giê-su; (3) chưa công khai đứng về phía Đức Giê-su.
1. Những kẻ chống đối Đức Giê-su
Trong Tin Mừng, xung đột giữa Đức Giê-su
và giới lãnh đạo Do Thái đã xảy ra từ ch. 2, họ chất vấn Người sau khi Người
thanh tẩy Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (2,18). Đến ch. 5, đã xảy ra tranh luận giữa
những người Do Thái và Đức Giê-su, sau dấu lạ chữa lành người bệnh tại hồ nước
Bết-da-tha (5,1-9). Họ quyết định giết Đức Giê-su như người thuật chuyện cho biết
ở 5,18: “Những người Do Thái lại càng tìm Người để giết, vì Người không chỉ phá
ngày sa-bát, nhưng còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, tự cho mình ngang hàng
với Thiên Chúa.” Tranh luận ngày càng gay gắt hơn được thuật lại trong ch. 7–8.
2. Đòi công lý cho Đức Giê-su
Sau khi các thượng tế và những người
Pha-ri-sêu sai thuộc hạ đi bắt Đức Giê-su (7,32), nhưng không thành công vì cả những
người được sai đi bắt Đức Giê-su cũng thán phục Người. Người thuật chuyện kể với
giọng văn châm biếm những người Pha-ri-sêu ở 7,44-49: “44 Một số người trong họ
muốn bắt Người (Đức Giê-su), nhưng chẳng có ai tra tay trên Người. 45 Các thuộc
hạ đi về với các thượng tế và những người Pha-ri-sêu. Họ hỏi các thuộc hạ:
‘Tại sao các anh không dẫn Ông ấy về?’ 46 Các thuộc hạ trả lời: ‘Chưa hề có ai
nói năng như người ấy.’ 47 Vậy những người Pha-ri-sêu nói với các thuộc hạ:
‘Cả các anh, các anh cũng bị mê hoặc sao? 48 Không có ai trong những người lãnh
đạo hay trong những người Pha-ri-sêu đã tin vào Ông ấy sao? 49 Còn đám đông
này, thứ người không biết Lề Luật, là những kẻ bị nguyền rủa.’” Theo những kẻ
chống đối thì lời Đức Giê-su có sức hấp dẫn đến “mê hoặc” còn độc giả thì sao?
Trong bối cảnh trên Ni-cô-đê-mô xuất hiện đòi
công lý cho Đức Giê-su, người thuật chuyện kể ở 7,50-52: “50 Ni-cô-đê-mô, người
trước đây đã đến gặp Người, là một người trong nhóm họ, nói với họ: ‘51 Lề Luật
của chúng ta không kết án người nào, nếu trước đó không nghe người ấy và biết
người ấy làm gì phải không?’ 52 Họ trả lời và nói với ông: ‘Không phải chính
ông cũng là người Ga-li-lê sao? Hãy nghiên cứu và thấy rằng: Không một ngôn sứ
nào xuất hiện từ Ga-li-lê.’”
Người thuật chuyện giúp độc giả xác định nhân vật
Ni-cô-đê-mô qua hai chi tiết ở 7,50: người trước đây đã đến gặp Đức Giê-su và một người trong nhóm những người Pha-ri-sêu. Cả hai chi tiết này đều xuất hiện ở
3,1. Việc những người Pha-ri-sêu chất vấn và có ý khiển trách Ni-cô-đê-mô cho
thấy họ không đồng tình với Ni-cô-đê-mô, đồng thời độc giả biết Ni-cô-đê-mô đã
nhận ra phần nào Đức Giê-su là ai.
3. Chưa công khai đứng về phía Đức Giê-su
Một cách kín đáo, Ni-cô-đê-mô đòi công lý
cho Đức Giê-su, nhưng ông chỉ nói một câu (7,51) và sau lời chất vấn của những
người Pha-ri-sêu (7,52) là sự im lặng. Tuy chưa công khai đứng về phía Đức Giê-su nhưng
lời bênh vực Đức Giê-su cho thấy ông đã có thiện cảm với Người. Chi tiết này
cho thấy, trong Tin Mừng, có một số nhân vật quyền thế trong giới lãnh đạo Do
Thái có thiện cảm với Đức Giê-su và tin vào Người. Cuối sứ vụ Đức Giê-su, người
thuật chuyện cho biết ở 12,42-43: “42 Ngay cả trong giới lãnh đạo nhiều người đã
tin vào Người (Đức Giê-su). Nhưng vì những người Pha-ri-sêu, họ không tuyên
xưng để không trở thành những kẻ bị khai trừ khỏi hội đường. 43 Vì họ yêu mến
vinh quang của con người hơn vinh quang của Thiên Chúa.” Câu này phù hợp với Ni-cô-đê-mô
ở ch. 7. Ông là một trong những người thuộc giới lãnh đạo Do Thái chưa dám
tuyên xưng Đức Giê-su cách công khai. Điều này không đúng nữa vào cuối Tin
Mừng, khi Ni-cô-đê-mô xuất hiện lần thứ ba.
III. Lần 3 (19,39-40), tẩm liệm
Đức Giê-su
Lần thứ ba, Ni-cô-đê-mô xuất hiện trong
Tin Mừng vào lúc đặc biệt: an táng Đức Giê-su. Phần sau trình bày ba điểm: (1) trình thuật tẩm liệm và mai táng 19,38-42; (2) Giu-se
A-ri-ma-thê; (3) Ni-cô-đê-mô.
1. Trình thuật tẩm liệm và mai táng (19,38-42)
Sau khi Đức Giê-su chết trên thập giá (19,30)
và lời chứng của môn đệ Đức Giê-su yêu mến về những gì đã xảy ra (19,31-37), trình
thuật tẩm liệm và mai táng Đức Giê-su được kể trong đoạn văn 19,38-42: “38 Sau
những điều đó, Ông Giu-se, [người] A-ri-ma-thê, xin Phi-la-tô để lấy thi hài Đức
Giê-su – ông ấy là một môn đệ của Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo vì sợ những
người Do Thái –. Phi-la-tô chấp thuận. Vậy ông ấy đến lấy thi hài Người. 39 Ni-cô-đê-mô
cũng đến mang theo mộc dược trộn với trầm hương khoảng một trăm cân (32,70 kg) – trước đây ông đến gặp Người ban đêm –. 40 Vậy các ông nhận lấy thi hài Đức
Giê-su quấn bằng băng vải tẩm thuốc thơm, theo như tục lệ an táng của người Do Thái.”
Trong lúc tất cả các môn đệ khác không
hiện diện lúc an táng Thầy của họ thì có hai người lo việc an táng Đức Giê-su.
Người thứ nhất là Giu-se A-ri-ma-thê, ông là “một môn đệ của Đức Giê-su, nhưng
cách kín đáo vì sợ những người Do Thái” (19,38) và người thứ hai là
Ni-cô-đê-mô, có “biệt hiệu” là “người đến gặp Đức Giê-su ban đêm” (3,2; 7,50;
19,39).
2. Giu-se A-ri-ma-thê
Xem ra Giu-se A-ri-ma-thê là người có uy
thế, vì ông đã đến gặp Phi-la-tô và xin lấy xác Đức Giê-su để an táng trong mộ.
Trong lúc các môn đệ đang sợ hãi và phân tán vì Đức Giê-su bị giết chết trên
thập giá, thì một nhân vật có uy thế (Giu-se A-ri-ma-thê) và một nhân vật thuộc
giới lãnh đạo Do Thái (Ni-cô-đê-mô), đã lo việc an táng Đức Giê-su.
Việc ông Giu-se A-ri-ma-thê đến gặp quan tổng
trấn Rô-ma chứng tỏ vị thế của ông, bởi vì không phải ai cũng được phép gặp Phi-la-tô,
người giữ chức vụ tổng trấn, đại diện đế quốc Rô-ma và chịu trách nhiệm cai quản
vùng Giu-đê. Chi tiết này cho biết trong số các môn đệ Đức Giê-su có những người
có vai vế trong xã hội thời đó. Chẳng hạn, môn đệ quen biết vị thượng tế đã dẫn
Phê-rô vào dinh thượng tế Kha-nan (18,16), xem trích dẫn 12,42-43 ở mục II.3.
3. Ni-cô-đê-mô
Trong lần xuất hiện này, Ni-cô-đê-mô không
nói lời nào cả, nhưng hành động của ông ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Ông bày tỏ cách
công khai lựa chọn đứng về phía Đức Giê-su. Tuy bản văn không nói rõ Ni-cô-đê-mô
là môn đệ, nhưng hành động lo việc an táng Đức Giê-su cho thấy ông ứng xử như
là môn đệ. Một người có chức vị trong xã hội như ông, đã lựa chọn bày tỏ công
khai lòng tôn kính thân xác Đức Giê-su, khi ông lo việc tẩm liệm với 100 cân mộc
dược trộn với trầm hương. Lựa chọn này làm cho Ni-cô-đê-mô, tuy thuộc nhóm Pha-ri-sêu
và là thủ lãnh của người Do Thái nhưng ông không
thuộc về nhóm chống đối Đức Giê-su.
Điều cao cả nơi Ni-cô-đê-mô là ông nhận ra
Đức Giê-su là ai khi Người chỉ còn là một xác chết. Không một môn đệ nào, kể cả
Nhóm Mười Hai có được niềm tin mạnh mẽ và cử chỉ cao đẹp như ông. Nói cách khác
không cần đợi đến lúc Đức Giê-su Phục Sinh, Ni-cô-đê-mô đã biết và tin vào Đức
Giê-su.
Tương phản giữa sự vắng mặt của “các môn
đệ chính danh” (được nói đến trong Tin Mừng) và sự hiện diện của “các môn đệ vô
danh” (theo Đức Giê-su cách kín đáo) trong biến cố tẩm liệm và mai táng Đức
Giê-su, là một trong những nét đặc thù của Tin Mừng Gio-an. Tương phản này làm
cho “hành trình trở thành môn đệ” của Ni-cô-đê-mô là đề tài độc đáo. Mọi người có
thể trở thành môn đệ Đức Giê-su, kể cả giới lãnh đạo Do Thái.
Kết luận
Tìm hiểu ba lần xuất hiện của nhân vật
Ni-cô-đê-mô (ở đầu, ở giữa và ở cuối sách Tin Mừng) trên đây đã phác hoạ phần
nào hành trình trở thành môn đệ Đức Giê-su. Ni-cô-đê-mô đã thực hiện hành trình
từ “ban đêm” đến “ban ngày”, từ “bóng tối” đến “ánh sáng”, từ “đến với” Đức
Giê-su ban đêm đến “bày tỏ công khai” đứng về phía Người vào ban ngày. Vậy Ni-cô-đê-mô
là nhân vật khuôn mẫu cho hành trình trở thành môn đệ, nhờ biết cách “thấy” dấu
lạ và “nghe” lời Đức Giê-su.
Hành trình của Ni-cô-đê-mô là thông điệp tác
giả gửi đến độc giả. Hành trình của Ni-cô-đê-mô là khuôn mẫu của hành trình tìm
kiếm ý nghĩa cuộc sống. Độc giả có thể vì một lý do nào nào đó đã đến gặp Đức
Giê-su ban đêm, đối thoại với Người, nhưng chẳng hiểu gì cả. Không sao, điều quan
trọng là đã “đến với”, “nói với” Đức Giê-su, bước tiếp theo là để lời Người ở lại
nơi mình. Về văn chương, Ni-cô-đê-mô cần đến 16 chương (từ ch. 3 đến ch. 19); về
lịch sử, ông cần đến ba năm suy nghĩ (thời gian Đức Giê-su thi hành sứ vụ), để
nhận ra Đức Giê-su là ai. Trong thực tế, có người cần nhiều thời gian hơn: cả đời tìm kiếm để cuối cùng quyết định theo Đức
Giê-su. Ngược lại có người như Phi-líp-phê, ông
chỉ cần nghe hai chữ của Đức Giê-su ở 1,43b: “akolouthei moi” (“Anh hãy theo Tôi”) là
đã thành môn đệ. Vấn đề không phải là thời gian mà là để lời Đức Giê-su soi sáng,
hướng dẫn, biển đổi để dần dần nhận ra “Ai đó” là “là con đường, là sự
thật và là sự sống” (14,6) cho mình./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/01/tim-hieu-tm-ga-ni-co-e-mo-hanh-trinh-tu.html
Dear Cha Thông
Trả lờiXóaCám ơn Cha về bài chia sẻ
Lâm cảm nhận nhận thật sâu sắc câu " Tưởng mình biết Đức Giê-su nhưng thực ra chưa biết (3,2) "
Lạy Chúa - xin cho chúng con được biết Ngài - dù chỉ 1 lần
Nguyện bình an của Chúa luôn ở cùng Cha và mọi người trong Tết Nhâm Thìn đang đến
Lâm BASIC
Thưa Cha Giáo, bài viết của Cha viết vào thời điểm này cũng thú vị đó nhỉ? vì (trong thế gian đang vui mừng đón xuân) cùng lúc xuất hiện nhân vật Ni-cô-đê-mô có cuộc hành trình trở thành môn đệ Đức Giesu rất tuyệt vời là hành trình từ “ban đêm” đến “ban ngày”, từ “bóng tối” đến “ánh sáng”, từ “đến với Đức Giê-su vào ban đêm” đến “bày tỏ công khai đứng về phía Người vào ban ngày”. Chúng con là những học trò đang tìm hiểu và học hỏi để trở thành những môn đệ đích thực của Đức Giesu,để cùng đi đến hưởng Mùa Xuân Vĩnh Hằng trong Ánh Sáng không bao giờ tàn lụi, Con chúc Cha năm mới bình an, vui tươi, và chan hoa hồng ân Thiên CHúa, để Cha có nhiều bài hay giúp mọi người và học trò sống thánh hơn.
Trả lờiXóa