Bài viết tiếng Pháp:
Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 08 tháng 04 năm 2020.
Nội dung
I. Tám đoạn văn về ánh sáng
II. Đồng hoá với ánh sáng
1. Lời (Logos) là ánh sáng (1,4.5.9)
2. Đức Giê-su là ánh sáng (8,12;
9,5; 12,46)
3. Gio-an Tẩy Giả không là, và là ánh sáng (1,7.8; 5,35)
III. Sứ vụ của ánh sáng
1. Ánh sáng chiếu soi thế gian
2. Mời gọi đến với và tin vào ánh sáng
IV. Khước từ ánh sáng
V. Chiến thắng của ánh sáng
Kết luận
Dẫn nhập
Trong Tự Điển Tiếng Việt, 2007, định nghĩa
mục từ “ánh sáng” như sau: (1) dạng vật chất do vật phát ra hoặc phản chiếu
trên vật, nhờ đó mắt có thể cảm thụ mà nhìn thấy vật ấy (nghĩa đen); (2) sự soi
sáng, sự hướng dẫn (nghĩa bóng). Dựa trên nghĩa tổng quát này Tin Mừng Gio-an
đã xây dựng đề tài ánh sáng thế nào? Ánh sáng là ai và nói về điều gì? Danh từ “ánh
sáng” trong Tin Mừng có thể chứa đựng nhiều nghĩa không có trong tự điển và trong
các Tin Mừng khác. Bài viết tìm hiểu đề tài ánh sáng qua năm mục: (I) tám đoạn văn về ánh sáng; (II) đồng
hoá với ánh sáng; (III) sứ vụ của ánh sáng; (IV) khước từ ánh sáng; (V) chiến
thắng của ánh sáng.
I. Tám đoạn văn về ánh sáng
Trong Tin Mừng, xuất hiện 23 lần danh từ
Hy-lạp “phôs” (ánh sáng); 2 lần (1,5; 5,35) động từ “phainô” (chiếu
soi, toả sáng); và 1 lần (1,9) động từ “phôtizô” (chiếu soi). Tất cả 23
lần từ “phôs” xuất hiện trong ch. 1–12. (Xem bài viết “Ánh
sáng và bóng tối”).
Đề tài “ánh sáng” diển tả qua ba từ: “phôs”, “phainô”, “phôtizô”
tìm thấy trong tám đoạn văn: (1) 1,1-11: Lời là ánh sáng thật, Gio-an Tẩy Giả
không phải là ánh sáng; (2) 3,18-21: yêu mến bóng tối và ghét ánh sáng; (3)
5,33-35: Gio-an Tẩy Giả là ánh sáng của ngọn đèn; (4) 8,12: Đức Giê-su là ánh
sáng của sự sống; (5) 9,1-5: Đức Giê-su là ánh sáng của thế gian; (6)
11,6-10: ánh sáng của thế gian này; (7) 12,35-36: tin vào ánh sáng; (8)
12,44-46: Đức Giê-su là ánh sáng đến thế gian. Dưới đây trích dẫn tám đoạn văn
này. (Xem Bản văn Gio-an, Tin
Mừng và Ba thư).
(1) Tác giả viết trong lời tựa Tin Mừng ở 1,1-11:
“1 Lời có lúc khởi đầu, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa. 2 Người
ở với Thiên Chúa lúc khởi đầu. 3 Nhờ Người, mọi sự được tạo thành, và không có
Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là
sự sống, và sự sống là ánh sáng của loài người; 5 và ánh sáng chiếu soi trong
bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh
sáng. 6 Có một người được sai đến từ Thiên Chúa, tên ông là Gio-an. 7 Ông
ấy đến làm chứng. Ông làm chứng về ánh sáng, để mọi người tin nhờ ông ấy. 8 Ông
ấy không phải là ánh sáng, nhưng làm chứng về ánh sáng. 9 Người (Logos) là
ánh sáng thật, ánh sáng chiếu soi mọi
người, đến trong thế gian. 10 Người ở trong
thế gian, thế gian được tạo thành nhờ Người và thế gian đã không nhận
biết Người. 11 Người đã đến nhà mình, và những kẻ thuộc về Người đã
không đón nhận Người.”
(2) Đức Giê-su tuyên bố trong diễn từ độc
thoại ở 3,18-21: “18 Ai tin vào Người (Con Một Thiên Chúa) thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. 19 Đây
là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh
sáng, vì các việc của họ thì xấu xa. 20 Vì mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng và không đến với ánh
sáng để các việc của họ khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ làm sự thật thì đến với ánh sáng để các việc của
người ấy được bày tỏ ra là đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
(3) Đức Giê-su nói với những người Do Thái
ở 5,33-35: “33 Chính các ông đã cử người đến với Gio-an, và ông ấy đã làm chứng
cho sự thật. 34 Phần Tôi, Tôi không nhận lời chứng do người phàm, nhưng Tôi nói
những điều này để chính các ông được cứu. 35 Ông ấy là ngọn đèn được thắp lên
và toả sáng, chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông
ấy.”
(4) Người thuật chuyện kể ở 8,12: “Đức
Giê-su lại nói với họ (những người Pha-ri-sêu) rằng: ‘Chính Tôi là ánh sáng của
thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ
có ánh sáng của sự sống.’”
(5) Câu chuyện anh mù được thấy mở đầu ở 9,1-5:
“1 Đi ngang qua, Người (Đức Giê-su) thấy một người mù từ thuở mới
sinh. 2 Các môn đệ của Người hỏi Người rằng: ‘Thưa Ráp-bi,
ai đã phạm tội, anh ta hay cha mẹ anh ta, để anh ta sinh ra đã bị mù?’ 3 Đức Giê-su
trả lời: ‘Không phải anh ta đã phạm tội, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta, nhưng
để công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh ta. 4 Chúng ta phải làm công
việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là ngày; đêm đến thì không ai có thể làm việc
được. 5 Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.’”
(6) Người thuật chuyện kể về Đức Giê-su và
các môn đệ ở 11,6-10: “6 Tuy nhiên, sau khi nghe rằng anh ấy (La-da-rô) bệnh,
Người (Đức Giê-su) còn ở lại nơi Người đang ở thêm hai ngày. 7 Sau điều đó,
Người nói với các môn đệ: ‘Chúng ta cùng trở lại Giu-đê.’ 8 Các môn đệ nói với
Người: ‘Thưa Ráp-bi,
mới đây những người Do Thái tìm ném
đá Thầy, mà Thầy lại đi đến đó sao?’ 9 Đức Giê-su trả lời: ‘Ban ngày chẳng có
mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không
vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. 10 Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì ánh sáng không ở trong
người ấy.’”
(7) Cuối sứ vụ Đức Giê-su, người thuật kể ở
12,35-36: “35 Đức Giê-su nói với họ (đám đông): ‘Còn một ít thời gian nữa, ánh
sáng ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người có ánh sáng, để bóng tối không
bắt được các người. Ai đi trong
bóng tối thì không biết mình đi đâu. 36 Khi các người có ánh sáng, hãy tin vào
ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng.’ Đức Giê-su đã nói những điều đó rồi
Người bỏ đi và lánh khỏi họ.”
(8) Đức Giê-su tóm kết sứ vụ ở 12,44-46: “44
Người tin vào Tôi, không phải là tin
vào Tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai
Tôi, 45 và ai thấy Tôi là thấy Đấng đã sai Tôi. 46 Tôi là ánh sáng đến trong thế
gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối.’”
II. Đồng hoá với ánh sáng
Tin Mừng đồng hoá ba nhân vật với ánh
sáng: (1) Lời (Logos) là ánh sáng (1,4.5.9); (2) Đức
Giê-su là ánh sáng (8,12;
9,5; 12,46); (3) Gio-an
Tẩy Giả không là (1,7.8),
và là ánh sáng (5,35).
1. Lời (Logos) là ánh sáng (1,4.5.9)
Trong Lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18), tác
giả đồng hoá Lời (Logos)
với ánh sáng qua hai bước: (a) Sự sống là ánh
sáng (1,4); (b) Lời là ánh sáng (1,9).
(a) Sự sống được đồng hoá với ánh sáng ở 1,4b:
“Sự sống là ánh sáng của loài người.”
Tuy nhiên ở 1,3b-4a, tác giả viết: “3b Điều đã được tạo thành 4a ở nơi Người (Logos)
là sự sống.” Sự sống là biểu hiện của Lời. Nên cách mặc nhiên, Lời
đồng hoá với ánh sáng. Cụm từ “Sự
sống là ánh sáng của loài người”
(1,4b) gợi đến kiểu nói “ánh
sáng của sự sống”
ở 8,12e.
(b) Lời
(Logos)
được đồng hoá với ánh sáng cách minh nhiên
ở 1,9: “Người (Logos) là
ánh sáng thật, ánh sáng chiếu soi mọi
người, đến trong thế gian.”
Sự đồng hoá còn được diễn tả qua những đặc tính của ánh sáng: “ánh
sáng của loài người”
(1,4b), “ánh sáng thật”
(1,9a); ánh sáng “đến
trong thế gian” (1,9c), “chiếu
soi mọi người” (1,9b) và “chiếu
soi trong bóng tối”
(1,5a).
2. Đức Giê-su là ánh sáng (8,12;
9,5; 12,46)
Ba lần trong Tin Mừng, Đức Giê-su đồng hoá
Người với ánh sáng (8,12; 9,5; 12,46) bằng
kiểu nói đặc thù của Tin Mừng: “chính Tôi là... (egô eimi)”. Xem phân
tích trong các bài viết: “Ánh
sáng và bóng tối trong Tin Mừng Gio-an”;
“Egô eimi:
chính Ta Là, chính là Ta (Is, Xh, Kh, Ga).”
Trong bối cảnh tranh luận, Đức Giê-su nói với những kẻ chống đối ở 8,12: “Chính
Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong
bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.” Trong
ch. 9, Đức Giê-su tuyên bố trước các môn đệ ở 9,5: “Bao
lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.”
Lời này định nghĩa sứ vụ của Đức Giê-su như một ngày làm việc, vì Đức Giê-su
nói ở 9,4: “Chúng ta phải làm
công việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là ngày; đêm đến thì không ai có thể làm
việc được.” “Ngày” là lúc Đức
Giê-su thực hiện sứ vụ công khai của Người, “đêm” là biểu tượng của sự chết. (Xem
bài viết “Ngày
và đêm trong Tin Mừng Gio-an”).
Cuối ch. 12, để tóm kết sứ vụ, Đức Giê-su khẳng định Người là ánh sáng và mời
gọi độc giả tin ở 12,46: “Tôi
là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại
trong bóng tối.”
3. Gio-an Tẩy Giả không là, và là ánh sáng (1,7.8; 5,35)
Phần này trình bày khẳng định xem ra trái
ngược nhau liên quan đến Gio-an Tẩy Giả và ánh sáng: (a) ông
không phải là ánh sáng (1,8); (b) ông là ánh sáng (5,35).
(a) Trong Tin Mừng, Gio-an Tẩy Giả xuất
hiện lần đầu tiên trong Lời tựa (1,1-18)
ở hai nơi: 1,6-8; 1,15. Hai đoạn văn này được chèn vào Lời tựa cho thấy tầm
quan trọng về vai trò làm chứng của ông. Tuy nhiên, tác giả khẳng định rõ ràng
là Gio-an không phải là ánh sáng (1,8a), đồng thời lặp lại hai lần: ông đến “làm
chứng cho ánh sáng” (1,7.8b). Trong mạch văn, khẳng định Gio-an Tẩy Giả không
phải là ánh sáng để làm nổi bật “Lời – Giê-su” là ánh sáng.
(b) Trong bối cảnh khác ở ch. 5, Đức
Giê-su đồng hoá Gio-an với ánh sáng (5,35). Khi những người Do Thái đang tìm giết
Đức Giê-su (5,18), Người nói với họ về “những
việc của người Con” (5,19-29) và liệt kê một loạt các lời chứng về Người
(5,30-47). Trong đoạn văn này, Người nói đến lời chứng của Gio-an ở 5,33-35. Ở
5,35a, Đức Giê-su nói Gio-an là “ngọn đèn được thắp lên và toả sáng.” Động từ
“toả sáng (phainô)” chỉ xuất hiện hai lần trong Tin Mừng (1,5; 5,35a).
Lần thứ nhất để nói về Lời (Logos) ở 1,5: Lời là
“ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng
tối đã không lấn át được ánh sáng.”
Lần thứ hai nói về Gio-an là
“ngọn đèn được thắp lên và toả sáng” (5,35a).
Lời Đức Giê-su nói với những người Do Thái
về Gio-an ở 5,35b: “Chính
các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông ấy”,
dịch sát: “hoan hỷ một giờ (hôran)
trong ánh sáng của ông ấy.”
Sứ vụ ngắn ngủi của Gio-an được ví như “ánh sáng của một giờ”. Theo Tin Mừng Mát-thêu,
Gio-an bị Hê-rô-đê bắt bỏ tù (Mt 14,3). Sau đó nhà vua đã ra lệnh chém đầu Gio-an
(Mt 14,9). Ở Ga 5,35b, động từ “hoan hỷ” (agalliaô)
diễn tả sự kính trọng và đóng góp có ý nghĩa của Gio-an cho dân Ít-ra-en. Đức
Giê-su đề cao vai trò làm chứng của ông (1,19-34) khi dùng biểu tượng ánh sáng
để nói về ông. Gio-an là ngọn đèn toả sáng qua việc ông làm chứng cho “ánh sáng
đích thực” là Đức Giê-su. Xem
“Gio-an Tẩy Giả là ánh sáng (5,35)”
trong bài viết: “Ở
Ga 1,21 Gio-an Tẩy Giả không phải là Ê-li-a, nhưng ở Mt 17,13 Gio-an là Ê-li-a,
mâu thuẫn hay bổ sung lẫn nhau?”
III. Sứ vụ của ánh sáng
Sứ vụ của Đức Giê-su là ánh sáng gồm hai
khía cạnh: (1) chiếu soi thế gian; (2) mời gọi đến với và tin
vào ánh sáng.
1. Ánh sáng chiếu soi thế gian
Tin Mừng dùng nhiều cách diễn tả tương
quan giữa ánh sáng và thế gian như ánh sáng “đến trong thế gian” (1,9c;
3,19; 12,46a) để “chiếu soi mọi
người” (1,9b). Ánh sáng được xác định là “ánh
sáng của loài người”
(1,4b), “ánh sáng của thế gian”
(9,5b). Như thế, Lời – Giê-su là ánh sáng, có sứ vụ trong thế gian là chiếu soi
mọi người qua lời nói và việc làm của Người. Đây là ánh sáng mang lại sự sống đích
thực cho mọi người và cho độc giả.
2. Mời gọi đến với và tin vào ánh sáng
Đức Giê-su thi hành sứ vụ bằng cách mời
gọi thính giả và độc giả “làm
sự thật” và “đến
với ánh sáng” (3,21a), “đi theo”
Người (8,12c) để “không bước đi trong bóng tối” (8,12d)
và “có ánh sáng của sự sống” (8,12e). Người đề nghị với đám đông bước đi trong
ánh sáng khi ánh sáng còn ở giữa họ (12,35a), nghĩa là “tin vào ánh sáng” để “trở
nên con cái ánh sáng” (12,36a). Vậy ai tin vào Đức Giê-su thì không ở lại trong
bóng tối (12,46b). Ở 11,9-10, Đức Giê-su nói đến những ai “thấy ánh sáng của
thế gian này” thì không vấp ngã, còn nếu “ánh sáng không ở trong người ấy” thì
vấp ngã. Nghĩa là “thấy Đức Giê-su” và “có Đức Giê-su ở với mình” sẽ tiến bước
trong ánh sáng của sự sống. Tóm lại, lời Đức Giê-su mời gọi độc giả phong phú đa
dạng và được diễn tả qua nhiều động từ liên kết với ánh sáng để không thuộc về bóng tối:
- “Đến với” ánh sáng (3,21b)
- “Đi theo” ánh sáng (8,12c)
- “Có” ánh
sáng của sự sống (8,12e)
- “Thấy” ánh
sáng của thế gian này (11,9e)
- “Ở trong” ánh sáng (11,10c)
- “Bước đi trong” ánh sáng (12,35b)
- “Tin vào” ánh sáng (12,36b.46b)
- “Trở thành con cái” ánh sáng (12,36c)
- “Không bước đi trong” bóng tối (8,12c)
- “Không ở lại trong” bóng tối (12,46d).
IV. Khước từ ánh sáng
Theo Tin Mừng, những ai từ chối lời mời gọi
trên đây là tự lựa chọn “bước
đi trong bóng tối”
(8,12c) và “ở lại trong
bóng tối” (12,46d). Đề tài “khước
từ ánh sáng” xuyên suốt Tin Mừng và được tìm thấy trong (1) lời tựa Tin Mừng (ch. 1); (2)
sứ vụ Đức Giê-su (ch. 3); và (3) diễn từ từ biệt (ch. 15–16).
(1) Việc khước từ ánh sáng đã được nói đến
trong Lời tựa ở 1,10-11. Lời là ánh sáng, ở trong thế gian nhưng thế gian đã
không nhận biết Người (1,10). “Người đã đến nhà mình, và những kẻ thuộc về
Người đã không đón nhận Người”
(1,11).
(2) Trong sứ vụ Đức Giê-su, việc từ chối
đến với ánh sáng tỏ lộ nơi những kẻ chống đối. Ở 3,18, Đức Giê-su nói đến sự
“tự lên án” đối với người không tin vào ánh sáng. Người tuyên bố ở 3,18: “Ai
tin vào Người (Con Một Thiên Chúa) thì không
bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị
lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.”
Đức Giê-su cho biết lý do khước từ ánh sáng trong câu tiếp theo ở 3,19: “Đây
là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh
sáng, vì các việc của họ thì xấu xa.”
Theo nghĩa thần học, “các việc
xấu xa” là hành động thù nghịch và ý định tìm
giết Đức Giê-su (5,18;
8,37.40). Sự khước từ ánh sáng ở cấp độ cao nhất là
“yêu mến bóng tối” (3,19) và “ghét ánh sáng” (3,20).
Đức Giê-su cho biết ở 3,20: “Mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng và không đến với ánh sáng để các việc của họ khỏi
bị chê trách.”
(3) Sự khước từ (3,18-19) được bộc lộ qua
thế gian thù ghét trong đoạn văn 15,18–16,4a. Thật vậy, thế gian “yêu thích” những
gì thuộc về nó (15,19) và “ghét” Chúa Cha, “ghét” Đức Giê-su (15,23.24) và
“ghét” các môn đệ (15,18.19). Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,18: “Nếu thế
gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.” Ở ch. 7, những
người Do Thái ghét Đức Giê-su và tìm cách làm hại Người (7,1-7). Còn các thượng
tế và những người Pha-ri-sêu thì tìm cách bắt Người (7,45-46). Vì thế thế gian
thù ghét ở ch. 15–16 có liên hệ với sự thù ghét của những người Pha-ri-sêu và các
thượng tế. Họ từ chối đến với ánh sáng, từ chối tin vào ánh sáng và tìm cách
dập tắt ánh sáng.
V. Chiến thắng của ánh sáng
Khi tìm giết Đức Giê-su, những kẻ chống
đối đã “yêu mến bóng tối” và thuộc về bóng tối. Cuộc chiến giữa ánh sáng và
bóng tối trong bối cảnh vụ kiện là đề tài quan trọng trong Tin Mừng. Chiến thắng
của ánh sáng trên bóng tối đã nói đến ngay trong Lời tựa Tin Mừng ở 1,5: “Ánh
sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng.”
Tuy nhiên sự chiến thắng này được trình bày cách nghịch lý. “Ánh sáng - Giê-su”
sẽ tắt. Cuối sứ vụ, Đức Giê-su nói với đám đông ở 12,35-36: “35
Còn một ít thời gian nữa, ánh sáng ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người
có ánh sáng, để bóng tối không bắt được các người. Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu. 36 Khi các
người có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng.” Vậy cuối
ch. 12, “ánh sáng - Giê-su” chỉ còn một ít thời gian nữa thôi. Những kẻ khước
từ ánh sáng sẽ thành công trong việc loại trừ ánh sáng khỏi thế gian. “Ánh
sáng” sẽ tắt trên thập giá. Vậy hiểu thế nào về chiến thắng của ánh sáng trên
bóng tối?
Chiến thắng của ánh sáng được diễn tả qua
ba mặc khải: (1) không ai có thể lấy mạng sống của Đức Giê-su được (10,17-18); (2)
không thể bắt Đức Giê-su nếu người không cho phép (18,6); (3) Giờ chết là lúc Đức
Giê-su được tôn vinh (12,23); lúc thủ lãnh thế gian bị xét xử (16,11) và là lúc
Người chiến thắng thế gian (16,33).
(1) Trong suốt sứ vụ Đức Giê-su, những kẻ
chống đối nhiều lần tìm bắt Người nhưng họ không thực hiện được. Người thuật
chuyện cho biết ở 7,30: “Bấy giờ họ tìm bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay
trên Người, vì giờ của Người chưa đến.” Cuối sứ vụ, Đức Giê-su nói với những
người Pha-ri-sêu ở 10,17-18: “17 Vì điều này mà Cha yêu mến Tôi: Tôi hy sinh
mạng sống mình để rồi lấy lại nó. 18 Không ai lấy nó khỏi Tôi, nhưng chính Tôi
tự mình hy sinh nó. Tôi có quyền hy sinh nó và Tôi có quyền lấy lại nó. Tôi đã
nhận mệnh lệnh này từ nơi Cha của Tôi.” Lời này cho thấy Đức Giê-su hiến dâng
mạng sống vì yêu mến Cha và vì yêu mến các môn đệ (13,1; 14,31). Không ai có
thế lấy đi mạng sống của Người được.
(2) Đầu ch. 18, quyền năng Đức Giê-su được
bày tỏ khi các thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu đến bắt Người
trong thửa vườn bên kia thung lũng Kít-rôn (18,1-3). Người thuật chuyện kể ở 18,4-6:
“4 Đức Giê-su biết mọi sự sắp xảy đến cho mình, Người đi ra và nói với họ: ‘Các
anh tìm ai?’ 5 Họ trả lời Người: ‘Giê-su người Na-da-rét.’ Người nói với họ: ‘Chính
là Tôi.’ Giu-đa, kẻ nộp Người, đứng với họ. 6 Khi Người vừa nói: ‘Chính là Tôi’
họ lùi lại và ngã xuống đất.” Bản văn trình bày uy quyền Đức Giê-su cách mạnh mẽ:
chỉ với hai chữ “egô eimi” (Chính là Tôi) mà những kẻ đến bắt đã “lùi
lại và ngã xuống đất” (18,6). Tương quan lực lượng chênh lệch như thế thì họ
không thể đụng đến Đức Giê-su được. Sở dĩ “cơ đội và viên chỉ huy cùng các
thuộc hạ của những người Do Thái
bắt Đức Giê-su và trói Người lại” (18,12) là vì Đức Giê-su cho phép họ làm. Rõ
ràng quyền năng của ánh sáng mạnh mẽ hơn quyền lực của bóng tối.
(3) Trong viễn cảnh này, Đức Giê-su tuyên bố
ở 12,23: “Giờ đã đến để Con Người
được tôn vinh”; và ở 12,31-32: “31
Bây giờ sự xét xử thì dành cho thế gian này, bây giờ thủ lãnh thế gian này sẽ
bị tống ra ngoài. 32 Phần Tôi, một khi được giương cao khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo
mọi người lên với Tôi.” Cái chết của Đức Giê-su trở thành sự kết án dành cho thủ
lãnh của thế gian này. Đức Giê-su nói với các môn đệ về hoạt động của Đấng
Pa-rác-lê ở 16,8-11: “8 Khi Đấng ấy đến (Đấng Pa-rác-lê), Người sẽ chứng minh
thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử. 9 Về tội: Họ không
tin vào Thầy. 10 Về sự công chính: Thầy đi về với Cha, và anh em không còn thấy
Thầy. 11 Về sự xét xử: Thủ lãnh của thế gian này đã bị xét xử.” Theo thần học Tin
Mừng, biến cố Thương Khó là lúc Đức Giê-su đi về với Cha (16,10b). Qua đó thủ
lãnh thế gian này bị xét xử (16,11b). Trước khi bước vào cuộc Thương Khó, Đức
Giê-su cho các môn đệ biết Người đã chiến thắng thế gian ở 16,33: “Những điều
này, Thầy nói với anh em để trong Thầy, anh em có sự bình an. Trong thế gian,
anh em có sự khốn khó, nhưng anh em hãy can đảm, chính Thầy đã thắng thế gian.”
Tóm lại, ánh sáng đã chiến thắng bóng tối
cách nghịch lý: chiến thắng ngay khi ánh sáng bị dập tắt. Trên bình diện trần
thế và lịch sử, ánh sáng đã tắt với cái chết của Đức Giê-su trên thập giá. Nhưng
trên bình diện mặc khải và thần học, qua cái chết, Đức Giê-su đi về với Cha, Người
được tôn vinh, được giương cao. Ánh sáng - Giê-su đã mãi mãi chiến thắng bóng
tối và thế lực đen tối. (Xem mục “bóng tối không lấn át được ánh sáng” trong bài
viết: “Ngày
và đêm trong Tin Mừng Gio-an”).
Kết luận
Phân tích trên cho thấy sự độc đáo của đề
tài “ánh sáng” trong Tin Mừng. Nhiều nhân vật được đồng hoá với ánh sáng: Lời (Logos),
Đức Giê-su, Gio-an Tẩy Giả. Trong đó Lời làm người là Đức Giê-su; còn Gio-an là ánh
sáng của ngọn đèn, ông làm chứng cho Đức Giê-su là ánh sáng mặt trời. Vậy ánh sáng
trong Tin Mừng quy về Đức Giê-su. Sứ vụ của Người là chiếu soi thế gian vì Người
là ánh sáng của thế gian. Điều kiện để có ánh sáng là tin vào ánh sáng. Nhờ đó có
sự sống đời đời, ngay trong cuộc sống trần thế. Quà tặng sự sống này diễn tả
bằng nhiều động từ đứng trước danh từ “ánh sáng”: “thấy”, “đến với”, “đi theo”,
“có” “ở trong”, “bước đi trong”, “tin vào” và “trở thành” con cái”. Đến với ánh
sáng là ra khỏi bóng tối, nghĩa là “không bước đi” và “không ở lại” trong bóng
tối.
Đức Giê-su mời gọi thính giả và độc giả đến
với ánh sáng. Người không áp đặt hay làm áp lực để buộc người ta đến với ánh
sáng. Có những người tin vào Đức Giê-su, nhưng cũng có những kẻ từ chối tin.
Trong bối cảnh vụ kiện giữa “ánh sáng” và “bóng tối”, sự khước từ ở cấp độ cao
nhất là “yêu mến bóng tối” và “ghét ánh sáng” (3,19-20). Khi tìm giết Đức
Giê-su, những kẻ chống đối đã thuộc về bóng tối, thuộc về quỷ (8,44). Họ đã
thành công trong việc loại trừ ánh sáng ra khỏi thế gian. Tuy nhiên, mặc khải của
Đức Giê-su cho độc giả biết sự thật sâu xa: ánh sáng đã mãi mãi chiến thắng
bóng tối. Ánh sáng được tôn dương và tôn vinh trong chính lúc bị dập tắt. Đó
cũng là lúc thủ lãnh của thế gian bị kết án và hoàn toàn thất bại (16,11).
Ý nghĩa phong phú của đề tài ánh sáng cho
thấy mỗi Tin Mừng sử dụng từ ngữ và xây dựng thần học theo cách thức riêng. Vậy
tra tự điển để biết nghĩa của từ ngữ trong bản văn là chưa đủ. Cần đọc chính
bản văn để xem ý nghĩa của từ ngữ ấy được xây dựng thế nào. Biểu tượng ánh sáng trong
Tin Mừng Gio-an, không tìm thấy trong tự điển đại cương, là một trong những
đóng góp độc đáo cho thần học và cho suy tư của độc giả./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét