Bài viết tiếng Pháp:
Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 18 tháng 04 năm 2020.
Nội dung
I. Lời chứng của Đức Giê-su ở ch.
3
1. Lời chứng và làm chứng ở 3,11
2. Lời chứng và làm chứng ở 3,32-33
II. Lời chứng của Đức Giê-su và
Cha ở ch. 5, ch. 8
1. Bản văn 5,30-40 và 8,13-19
2. Lời chứng không thật (5,31) hay thật (8,14a)?
3. Lời chứng của Cha (5,31-32.37-38)
4. Lời chứng của hai người
(8,17-18)
5. Nội dung lời chứng và sứ vụ Đức Giê-su
6. Những kẻ chống đối khước từ lời chứng
Kết luận
Dẫn nhập
Bài viết “Lời chứng và làm chứng (TM Gio-an)”
đã trình bày khái quát về đề tài và liệt kê số lần danh từ “lời chứng” (marturia)
và động từ “làm chứng” (martureô). Những bài viết khác trình bày chi tiết hơn về “lời chứng của Gio-an” và
“lời chứng của môn đệ Đức Giê-su yêu mến (Ga 19,35;
21,24)”.
Bài viết này tập trung phân tích lời chứng
của Đức Giê-su và của Chúa Cha được nói đến trong Tin Mừng Gio-an như sau: Lời
chứng của Đức Giê-su trình bày bằng danh từ “marturia” (lời chứng) xuất
hiện 6 lần ở 3,11.32.33; 5,31; 8,13.14 và động từ “martureô” (làm chứng)
xuất hiện 10 lần ở 3,11.32; 4,44; 5,31; 7,7; 8,13.14.18a; 13,21; 18,37. Số lần
xuất hiện theo thứ tự các chương như sau: – Ch. 3: 3 lần danh từ (3,11.32.33); 2
lần động từ (3,11.32). – Ch. 4: 1 lần động từ (4,44). – Ch. 5: 1 lần động từ (5,31a);
1 lần danh từ (5,31b). – Ch. 7: 1 lần động từ (7,7). – Ch. 8: 2 lần danh từ (8,13.14);
3 lần động từ (8,13.14.18a). – Ch. 13: 1 lần động từ (13,21). – Ch. 18: 1 lần động
từ (18,37). Vậy đề tài này xuất hiện chủ yếu trong sách Các Dấu Lạ (Ga 1–12):
14 lần. Trong sách Giờ Tôn Vinh (Ga 13–21) chỉ xuất hiện 2 lần động từ “martureô”
ở 13,21; 18,37.
Lời chứng của Chúa Cha diễn tả bằng danh từ
“marturia” (lời chứng): 2 lần ở 5,34; 8,17 và bằng động từ “martureô”
(làm chứng): 4 lần ở 5,32a.32b.37; 8,18b. Đề tài này chỉ được nói đến trong hai
chương: – Ch. 5: 1 lần danh từ (5,34); 3 lần động từ (5,32a.32b.37). – Ch. 8: 1
lần danh từ (8,17); 1 lần động từ (8,18b).
Trong bốn chương (ch. 4; 7; 13; 18) đề tài lời chứng
của Đức Giê-su chỉ xuất hiện 1 lần động từ “martureô” trong mỗi chương ở
4,44; 7,7; 13,21; 18,37. Những câu này sẽ được phân tích trong các bài viết khác.
Bài viết này trình bày lời chứng của Đức Giê-su và Cha qua hai mục: (I) lời chứng
của Đức Giê-su ở ch. 3;
(II) lời chứng của Đức
Giê-su và Chúa Cha ở ch. 5, ch. 8.
I. Lời chứng của Đức Giê-su
ở ch. 3
Trong ch. 3, lời chứng của Đức Giê-su được
chính Người nói với Ni-cô-đê-mô ở 3,11. Còn ở 3,32-33 là Gio-an Tẩy Giả nói về
lời chứng của Đức Giê-su. Phần này trình bày (1) lời chứng ở 3,11 và (2) ở 3,32-33.
1. Lời chứng và làm chứng ở 3,11
Lời chứng trong câu 3,11 được tìm hiểu qua ba điểm:
(1) bối cảnh 3,11; (2) cách xưng hô ở số nhiều: “chúng tôi” và “các ông”; (3) lời
chứng và sự khước từ.
(1) Sau khi Đức Giê-su nói với Ni-cô-đê-mô ở
3,3: “Nếu ai không được sinh ra một lần nữa, thì không thể thấy vương quốc
Thiên Chúa”, ông hiểu lầm lời Đức Giê-su (3,5). Người giải thích cho ông ở
3,5-7, nhưng ông vẫn chưa hiểu nên hỏi Đức Giê-su ở 3,9: “Làm sao những điều ấy
có thể xảy ra được?” Lần này, Đức Giê-su trả lời ông bằng hai câu hỏi khác ở 3,10.12.
Giữa hai câu hỏi này (3,11) là lời Đức Giê-su nói về lời chứng của Người, điều
lạ lùng là Đức Giê-su dùng đại từ ngôi thứ nhất số nhiều: “chúng tôi”. Người
thuật chuyện kể ở 3,10-12: “10 Đức Giê-su trả lời và nói với ông (Ni-cô-đê-mô):
‘Ông là bậc thầy của Ít-ra-en, mà không biết những điều ấy sao? 11 A-men,
a-men, Tôi nói cho ông: Điều chúng tôi đã biết, chúng tôi nói và điều chúng tôi
đã thấy, chúng tôi làm chứng (marturoumen), và lời chứng (marturian)
của chúng tôi, các ông không đón nhận. 12 Nếu những chuyện dưới đất Tôi nói với
các ông mà các ông không tin, thì nếu Tôi nói với các ông về những chuyện trên trời làm sao các ông tin?’” (Xem
Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư).
Kể từ 3,10, nhân vật
Ni-cô-đê-mô không lên tiếng trong trình thuật nữa. Đoạn văn tiếp theo (3,13-21)
là phần độc thoại của Đức Giê-su về sứ vụ của Người với ba ý chính: (1) nguồn
gốc của Người (3,13-14); (2) cách thức Thiên Chúa biểu lộ tình yêu dành cho thế
gian (3,16-17); (3) sự xét xử dành cho những ai không tin vào Đức Giê-su (3,18-21).
(2) Việc Đức Giê-su dùng đại từ ngôi thứ nhất
số nhiều (chúng tôi) ở 3,11 có thể hiểu lời chứng và hành động làm chứng của
Đức Giê-su được đồng hóa với lời chứng và làm chứng của cộng đoàn các môn đệ. Nói
cách khác, Đức Giê-su đứng về phía cộng đoàn, với đại từ “chúng tôi”, Đức
Giê-su nói thay cộng đoàn người tin. Còn Ni-cô-đê-mô, ông đại diện những người
Do Thái, nên Đức Giê-su dùng đại từ ngôi thứ hai số nhiều “các ông” để nói với
ông ở 3,11.
(3) Trong câu 3,11, ý đầu tiên gợi đến lời rao
giảng của Đức Giê-su và các môn đệ, Người nói ở 3,11b: “Điều chúng tôi đã biết,
chúng tôi nói.” Ý tiếp theo là việc làm chứng của Đức Giê-su và của cộng đoàn
dựa trên những điều đã “thấy”, Người nói tiếp ở 3,11c: “Điều chúng tôi đã thấy,
chúng tôi làm chứng.” Cuối cùng là sự khước từ lời chứng của những người Do
Thái mà Ni-cô-đê-mô là người đại diện, Đức Giê-su nói ở 3,11d: “Lời chứng của
chúng tôi, các ông không đón nhận.” Sự khước từ này sẽ được làm rõ trong nội
dung Tin Mừng qua sự xung đột và chống đối của những người Pha-ri-sêu, những
người Do Thái và các thượng tế.
2. Lời chứng và làm chứng ở 3,32-33
Đề tài lời chứng của Đức Giê-su ở 3,32-33 thuộc
diễn từ độc thoại của Gio-an trong đoạn văn 3,31-36, ông nói với các môn đệ của
ông về nguồn gốc và sứ vụ của Đức Giê-su. (Xem mục 3. “Gio-an làm chứng về Đức
Giê-su ở 3,31-36” trong bài viết: “Lời chứng của Gio-an)”. Gio-an mở đầu lời chứng về Đức Giê-su ở 3,31-33: “31 Đấng đến từ trên thì ở
trên tất cả; kẻ bởi đất thì thuộc về đất và nói chuyện thuộc về đất. Đấng đến
bởi trời [thì ở trên tất cả]; 32 điều Người đã thấy và đã nghe, Người làm chứng
về điều ấy, và lời chứng của Người chẳng ai đón nhận. 33 Ai đón nhận lời chứng
của Người thì xác nhận rằng: Thiên Chúa thì chân thật.” Lời chứng của Đức
Giê-su ở 3,31-33 được phân tích qua hai điểm: (1) làm chứng về điều đã thấy và đã
nghe; (2) lời chứng không được đón nhận.
(1) Ở 3,32, Gio-an nói về Đức Giê-su như là “Đấng
đến từ trên” (3,31a), “Đấng đến bởi trời” (3,31c). Lời chứng của Đấng này dựa
trên những gì “đã thấy” và “đã nghe”. Gio-an nói ở 3,32a: “Điều Người đã thấy
và đã nghe, Người làm chứng về điều ấy.” Đây là điều Đức Giê-su đã thấy, đã
nghe từ nơi Cha của Người như Người khẳng định với
những người Do Thái ở 8,26:
“Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật; và Tôi, những điều Tôi đã nghe nơi Người,
Tôi nói những điều đó trong thế
gian.” Cuối sứ vụ, Đức
Giê-su tóm kết ở 12,49-50: “49 Vì chính
Tôi đã không nói tự mình, nhưng là Cha, Đấng đã sai Tôi, Chính Người cho Tôi
mệnh lệnh để Tôi nói điều gì và tuyên
bố điều gì. 50 Và Tôi biết rằng: Mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy
những điều Tôi nói, thì như Cha đã nói
với Tôi thế nào, Tôi nói như vậy.” Trước
khi bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giê-su nhắc lại ý này với các môn đệ ở 14,24:
“Ai không yêu mến Thầy thì không
giữ những lời của Thầy; và lời
mà anh em nghe không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy.” Vậy
những gì Đức Giê-su mặc
khải và làm chứng là dựa trên điều Người đã thấy, đã nghe từ nơi Cha.
(2) Vế thứ hai ở 3,32b, song song với 3,11c,
cùng nói về sự khước từ lời chứng, Gio-an nói ở 3,32b: “Lời chứng của Người
chẳng ai đón nhận.” Tuy vậy, câu tiếp theo nói về lời chứng theo hướng tích cực
ở 3,33: “Ai đón nhận lời chứng của Người thì xác nhận rằng: Thiên Chúa thì chân
thật.” Kiểu hành văn đối lập: “đón nhận” hay “không đón nhận”, “tin” hay “không
tin”, “hư mất” hay “được cứu”, “bị xét xử” hay “không bị xét xử” là đặc thù của
Tin Mừng. Những cặp đối lập này xuất hiện trong các đoạn văn 3,13-21 và 3,31-36.
Chẳng hạn Đức Giê-su nói ở 3,18: “Ai tin vào Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.” Còn
Gio-an, ông kết thúc lời chứng ở 3,36: “Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời; còn ai không vâng phục Con thì sẽ không thấy sự sống, nhưng sự
thịnh nộ của Thiên Chúa ở lại trên kẻ ấy.”
II. Lời chứng của Đức Giê-su
và Cha ở ch. 5, ch. 8
Đề tài lời chứng của Đức Giê-su và Chúa Cha được thuật lại trong hai đoạn văn: 5,30-40 và 8,13-19. Điểm chung của hai đoạn văn này là cùng nói về các đề tài “xét xử” (krinô), “lời chứng” (marturia) và “làm chứng” (martureô). Phần này trình bày sáu điểm: (1) bản văn 5,30-40 và 8,13-19; (2) lời chứng của Đức Giê-su không thật (5,31) hay thật (8,14a)?; (3) lời chứng của Cha (5,31-32.37-38); (4) lời chứng của hai người (8,17-18); (5) nội dung lời chứng và sứ vụ Đức Giê-su; (6) những kẻ chống đối khước từ lời chứng.
1. Bản văn 5,30-40 và 8,13-19
Phần này trình bày bốn mục: (1) bản văn Ga 5,30-40; (2) bản văn Ga 8,13-19;
(3) so sánh hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19; (4) giống nhau và khác nhau trong hai đoạn
văn này.
(1) Đoạn văn 5,30-40, thuộc phần diễn từ độc thoại của Đức Giê-su nói
với những người Do Thái (5,19-47), cấu trúc thành 6 tiểu đoạn:
a) Đức Giê-su xét xử công minh, 5,30:“Tôi (Đức Giê-su) không thể làm điều gì tự mình. Tôi xét xử theo như
Tôi nghe, và sự xét xử của Tôi là công minh, vì Tôi không tìm kiếm ý của Tôi
nhưng là ý của Đấng đã sai Tôi.”
b) Chúa Cha làm chứng
về Đức Giê-su, 5,31-32: “31 Nếu
Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật. 32 Có Đấng khác
là Đấng làm chứng về Tôi và Tôi biết rằng: Lời chứng mà Người làm chứng về Tôi
là thật.” (Đấng khác ở 5,31 là Chúa Cha nói
đến ở 5,37-38).
c) Gio-an làm chứng
cho sự thật, 5,33-35: “33
Chính các ông (những người Do Thái) đã cử người đến với Gio-an, và ông ấy đã
làm chứng cho sự thật. 34 Phần Tôi, Tôi không nhận lời chứng do người phàm,
nhưng Tôi nói những điều này để chính các ông được cứu. 35 Ông ấy là ngọn đèn
được thắp lên và toả sáng, chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong
ánh sáng của ông ấy.”
d) Công việc của Đức
Giê-su làm chứng về Người, 5,36: “Nhưng
Tôi, Tôi có lời chứng lớn hơn lời chứng
của Gio-an, đó là những việc mà Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng.
Chính những việc Tôi làm, làm chứng về Tôi rằng: Cha đã sai Tôi.”
e) Chúa Cha làm
chứng về Đức Giê-su, 5,37-38: “37 Và Cha,
Đấng đã sai Tôi, chính Người đã làm chứng về Tôi. Các ông đã không bao giờ nghe
tiếng của Người, cũng chẳng thấy tôn nhan của Người; 38 và các ông không có lời
của Người ở lại trong các ông, vì Đấng Người đã sai đến, chính các ông không
tin vào Đấng ấy.” đoạn văn này làm rõ câu 5,32.
f) Kinh Thánh là lời
chứng về Đức Giê-su, 5,39-40: “39 Các
ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì chính các ông nghĩ rằng trong đó có sự sống đời
đời. Chính Kinh Thánh là
những lời chứng về Tôi, 40 và các ông không muốn đến với Tôi để có sự
sống.”
(2) Đoạn văn 8,13-19, thuộc phần tranh luận giữa
Đức Giê-su và những người Pha-ri-sêu (8,12-30), cấu trúc thành 4 tiểu đoạn:
a) Lời chứng của Đức
Giê-su là thật, 8,13-14: “13
Những người Pha-ri-sêu nói với Người (Đức Giê-su): ‘Ông làm chứng cho chính mình;
lời chứng của Ông là không thật.’ 14 Đức Giê-su trả lời và nói với họ: ‘Nếu
chính Tôi làm chứng về mình lời chứng của Tôi là thật, bởi vì Tôi biết Tôi từ
đâu tới và Tôi đi đâu. Nhưng các ông, các ông không biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi
đâu.’”
b) Xét đoán của Đức Giê-su là thật, 8,15-16:
“15 Các ông (những người Pha-ri-sêu), các ông xét đoán
theo người phàm, phần Tôi, Tôi không xét đoán ai cả. 16 Mà nếu chính Tôi xét
đoán, sự xét đoán của Tôi là thật, vì không chỉ một mình Tôi, nhưng Tôi và Cha,
Đấng đã sai Tôi.”
c) Lời chứng của hai
người, 8,17-18: “17
Trong Lề Luật của các ông (những người Pha-ri-sêu) có chép rằng: ‘Lời chứng của
hai người là thật.’ 18 Chính Tôi là người làm chứng về mình, và Cha, Đấng đã sai Tôi, làm chứng về Tôi.”
d) Người Pha-ri-sêu
không biết Đức Giê-su và Cha, 8,19: “19 Vậy
họ (những người Pha-ri-sêu) nói với Người (Đức Giê-su): ‘Cha của Ông ở đâu?’ Đức
Giê-su trả lời: ‘Các ông không biết Tôi, cũng chẳng biết Cha của Tôi. Nếu các ông biết Tôi, các ông cũng biết Cha của
Tôi.’”
(3) So sánh giữa 5,30-40 và 8,13-19 cho thấy những
chi tiết giống nhau và khác nhau trong hai đoạn văn:
Đoạn văn 5,30-40 không nhấn mạnh “lời chứng của Đức Giê-su” (5,31) mà tập
trung vào các lời chứng về Đức Giê-su. Đó là lời chứng của Chúa Cha (5,32.37-38),
lời chứng của Gio-an (5,33-35), lời chứng qua những việc Đức Giê-su làm (5,36)
và lời chứng của Kinh Thánh (5,39). Còn đoạn văn 8,13-19 lại nhấn mạnh đến lời
chứng của hai người: Lời chứng của Đức Giê-su và của Chúa Cha.
(4) Bảng trên đây cho biết những chi tiết giống nhau và khác nhau trong
hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19, và được xếp thành ba nhóm: (a) ba đề tài chung;
(b) sáu chi tiết riêng của 5,30-40; (c) sáu
chi tiết riêng của 8,13-19.
a) Ba đề tài chung của hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19: (1) Sự xét xử và
xét đoán của Đức Giê-su là công minh và đúng theo sự thật (5,30 // 8,15-16).
Danh từ “krisis” và động từ “krinô” tiếng Hy-lạp có ba nghĩa:
“xét xử”, “kết án”, “xét đoán”, hiểu theo nghĩa nào còn tùy mạch văn. Ở 5,30 có
nghĩa “xét xử” và ở 8,15-16 có nghĩa “xét đoán”. (2) Lời chứng của Chúa Cha (5,31-32;
37-38 // 8,17-18). (3) Những kẻ chống đối Đức Giê-su (những người Do Thái,
những người Pha-ri-sêu) “không có” và “không biết” nhiều điều liên quan đến
Chúa Cha và Đức Giê-su (5,37b.38.40; 8,14c.19). (Xem mục “6. Những kẻ chống đối
khước từ lời chứng”).
b) Sáu chi tiết riêng của đoạn văn 5,30-40: (1) Đức Giê-su không làm
chứng về mình (5,31); (2) nhắc lại lời chứng của Gio-an (5,33-35); (3) công việc
của Đức Giê-su làm chứng về Người (5,36); (4) Kinh Thánh là lời chứng về Đức
Giê-su (5,39); (5) những người Do Thái đã không bao giờ nghe tiếng Chúa Cha,
cũng chẳng thấy tôn nhan Người (5,37b); (6) họ không có lời Chúa Cha nơi mình,
vì không tin vào Đấng Người đã sai đến (5,38).
c) Sáu chi tiết riêng của đoạn văn 8,13-19: (1) Đức Giê-su làm chứng về
Người và lời chứng của Người là thật (8,13-14a); (2) Đức Giê-su biết Người từ
đâu tới và đi đâu (8,14b); (3) lời chứng của hai người theo Luật: Đức Giê-su và
Chúa Cha (8,17-18); (4) những người Pha-ri-sêu không biết Đức Giê-su từ đâu tới
và đi đâu (8,14c); (5) họ không biết Cha của Đức Giê-su ở đâu (8,19a); (6) họ không
biết Chúa Cha và Đức Giê-su (8,19b).
Trong hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19, hai câu nói của Đức Giê-su ở 5,31
và 8,14a xem ra mâu thuẫn. Câu hỏi đặt ra là lời chứng của Người “không thật”
(5,31) hay “thật” (8,14a)?
2. Lời chứng không thật (5,31) hay thật (8,14a)?
Để hiểu lời Đức Giê-su ở 5,31 và 8,14a, phần này trình bày ba điểm: (1)
bối cảnh 5,31 và 8,14a; (2) nguồn gốc câu “làm chứng về mình thì không thật”; (3)
5,31 và 8,14 trong mạch văn 5,30-40 và 8,13-19.
(1) Trong đoạn văn 5,30-40, Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 5,31:
“Nếu Tôi làm chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật.” Sau đó Người
liệt kê bốn lời chứng về Người (5,32-40). Trong đoạn văn 8,13-19, những người
Pha-ri-sêu dùng câu Đức Giê-su nói ở 5,31 để chất vấn Người ở 8,13: “Ông làm
chứng cho chính mình; lời chứng của Ông là không thật.” Lần này, Đức Giê-su trả lời ở 8,14: “Nếu chính Tôi làm chứng về mình lời chứng
của Tôi là thật, bởi vì Tôi biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu. Nhưng các ông,
các ông không biết Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu.” Vậy lời Đức Giê-su ở 5,31 và
8,14a đặt ra câu hỏi: Lời chứng của Người là “không thật” (5,31) hay “thật” (8,14a)?
Giải thích thế nào về hai lời này? Để trả lời cần tìm hiểu nguồn gốc câu “làm
chứng về chính mình thì không thật” và đặt lời Đức Giê-su ở 5,31; 8,14 trong
mạch văn.
(2) Nguồn gốc câu “làm chứng về mình thì không thật” tìm thấy trong Cựu
Ước. Lời Đức Giê-su ở 5,31 gợi lại một số khoản luật trong Cựu Ước (Đnl 17,6;
19,15; Ds 35,30). Theo Sách Đệ Nhị Luật (Đnl 17,2-7), ai vi phạm Giao Ước, thờ
lạy tà thần sẽ bị xử tử. Cách thức tiến hành được mô tả ở Đnl 17,6: “Căn cứ vào
lời của hai nhân chứng hay ba nhân chứng, mà người đáng chết sẽ bị xử tử; người
ấy sẽ không bị xử tử nếu chỉ căn cứ vào lời của một nhân chứng.” (Trích dẫn Cựu
Ước lấy trong NPD/CGKPV, Kinh Thánh, ấn bản 2011). Sách Đệ Nhị Luật chỉ
thị về việc làm chứng trong những tranh tụng trước tòa ở Đnl 19,15: “Một nhân
chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi
nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng
hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.” Ai làm chứng gian
(Đnl 19,18b) sẽ bị xử phạt theo cách: “Anh em sẽ xử với nó, như nó đã định xử
với anh em mình” (Đnl 19,19a). Sách Dân Số quy định ở Ds 35,30: “Trong mọi
trường hợp đánh chết người, người ta sẽ dựa vào lời khai của các chứng nhân mà
xử tử kẻ sát nhân. Nhưng lời khai của một chứng nhân duy nhất sẽ không thể làm
cho ai bị kết án tử hình.” Vậy theo Cựu Ước, lời của một nhân chứng thì chưa đủ
để buộc tội. Tuy nhiên trích dẫn Cựu Ước trên đây là trường hợp làm chứng về
người khác, chứ không phải “làm chứng về chính mình” như Đức Giê-su đã nói ở Ga
5,31; 8,13-14.
Có thể lời Đức Giê-su về “làm chứng về chính mình” (Ga 5,31; 8,13), gợi
đến một số câu trong văn chương Do Thái. Mishnah
Ketubot, ch. 2, câu 9 viết: “không ai có thể làm chứng cho chính mình (No one
may testify regarding himself).” (http://www.emishnah.com/sedarim.html). Trong
bộ Talmud Babylon, tract Rosh Hashana (HaSahanah), ch. 3 đoạn 1 viết: “Một cá
nhân không thể căn cứ trên chính mình (An individual is not authorized by
himself).” (http://halakhah.com/).
(3) Đặt lời Đức Giê-su ở 5,31 và 8,14a trong
mạch văn cho phép hiểu ý nghĩa của chúng. Lời Đức Giê-su ở 5,31: “Nếu Tôi làm
chứng về chính mình thì lời chứng của Tôi không thật” đặt trong bối cảnh quan
niệm Do Thái vào thời đó và được xác định trong Cựu Ước và văn chương Do Thái. Theo
quy định của Lề Luật, Đức Giê-su không chỉ đưa ra lời chứng của hai người mà là
bốn lời chứng: lời chứng của Cha (5,32.37-38), lời chứng của Gio-an (5,33-35),
lời chứng qua những việc Người làm (5,36) và lời chứng trong Kinh Thánh (5,39).
Ngược lại ở 8,13, những người Pha-ri-sêu chất
vấn Đức Giê-su ở 8,13: “Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của Ông là
không thật.” Người trả lời họ ở 8,14: “Nếu
chính Tôi làm chứng về mình lời chứng của Tôi là thật, bởi vì Tôi biết Tôi từ
đâu tới và Tôi đi đâu. Nhưng các ông, các ông không biết Tôi từ đâu tới và Tôi
đi đâu.” Trong mạch văn, lời chứng của Đức Giê-su là thật bởi vì Người biết nguồn
gốc của Người: từ đâu tới và sẽ đi đâu (8,14b); còn những người Pha-ri-sêu thì
không biết điều này (8,14c). Vậy chỉ một mình Đức Giê-su có khả năng làm chứng
về chính mình và lời chứng đó là thật, vì Người có nguồn gốc thần linh: Đấng từ
trời xuống và sẽ lại lên trời như Người đã nói ở 3,13: “Không ai đã lên trời, ngoại
trừ Đấng từ trời xuống là Con Người.”
Tóm lại, lời Đức Giê-su ở 5,31 đặt trong trường
hợp khái quát, áp dụng cho tất cả mọi người. Còn ở 8,14a là trường hợp đặc thù,
chỉ áp dụng cho Đức Giê-su. Lời chứng của Người là thật, vì Người là Đấng Thiên
Chúa sai đến để nói lời Thiên Chúa. Nói cách khác, khi nói đến các lời chứng ở
5,30-39, Đức Giê-su nói với tư cách là con người; còn khi nói về lời chứng ở
8,13-19, Đức Giê-su nói với tư cách là “Con Một Thiên Chúa là Đấng hằng ở nơi
cung lòng Cha” (1,18b); nên Người nói về lời chứng của hai người: chính Người và
Chúa Cha (8,17-18).
3. Lời chứng của Cha (5,31-32.37-38)
Trong đoạn văn 5,30-40, Đức Giê-su không làm
chứng về chính mình mà nói đến bốn lời chứng. Trong đó, lời chứng quan trọng là
lời chứng của Chúa Cha. Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 5,32: “Có Đấng
khác là Đấng làm chứng về Tôi và Tôi biết rằng: Lời chứng mà Người làm chứng về
Tôi là thật.” Danh xưng “Đấng khác” trong câu này được xác định ở 5,37a. Đức Giê-su
khẳng định ở 5,37a: “Cha, Đấng đã sai Tôi, chính Người đã làm chứng về Tôi”, trước
câu này Người xác nhận lời chứng của Cha là đúng sự thật (5,32b). Vậy đoạn văn
5,30-40 đề cao uy thế lời chứng của Cha về Đức Giê-su. Còn ở 8,13-19 nhấn mạnh lời
chứng của hai người.
4. Lời chứng của hai người (8,17-18)
Đoạn văn 8,17-18 triển khai ý tưởng lời chứng
của hai người theo quy định trong Cựu Ước trích dẫn trên đây (Đnl 17,6; 19,15;
Ds 35,30). Trước hết Đức Giê-su cho biết tại sao Người làm chứng về chính mình
và lời chứng của Người là thật. Kế đến, Người dựa trên quy định Lề Luật để nói
với những người Pha-ri-sêu ở 8,17-18: “17 Trong Lề Luật của các ông có chép
rằng: ‘Lời chứng của hai người là thật.’ 18 Chính Tôi là người làm chứng về
mình, và Cha, Đấng đã sai Tôi, làm chứng về Tôi.” Các bản văn Đnl 17,6; 19,15
và Ds 35,30 khẳng định lời chứng của hai người thì có giá trị. Ở đây lời chứng
của Đức Giê-su và của Cha không phải là lời chứng của hai người phàm mà là của
Thiên Chúa và của Con Thiên Chúa. Người phàm có thể làm chứng gian để hại nhau,
nhưng lời chứng của Thiên Chúa và Đấng Người sai đến là đúng sự thật, mức độ
tin cậy là tuyệt đối.
5. Nội dung lời chứng và sứ vụ Đức Giê-su
Hai đoạn văn 5,30-40 và 8,13-19 khẳng định tính
xác thực của lời chứng nên không nói nhiều về nội dung lời chứng. Lời chứng của
Đức Giê-su là thật (8,14a), lời chứng của Cha là thật (5,32b). Còn Gio-an, ông làm
chứng cho sự thật (5,33b). Đức Giê-su còn nói đến lời chứng qua những việc Người
làm (5,36) và lời chứng của Kinh Thánh (5,39). Tất cả làm chứng về Đức Giê-su. Tuy
nhiên có thể nhận ra nội dung lời chứng qua cụm từ “những việc Đức Giê-su làm”
ở 5,36c.
Thật vậy, Đức Giê-su xác định nguồn gốc việc làm
của Người ở 5,36b: “Đó là những việc mà Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành
chúng.” Nên đây không phải là việc làm theo ý Đức Giê-su mà là công việc của Cha.
Chúa Cha đã trao công việc cho Đức Giê-su và Người thực hiện những việc này
trong sứ vụ của Người. Nói cách khác sứ vụ của Đức Giê-su làm chứng rằng Chúa
Cha đã sai Người đến thế gian (5,36c). Trong bối cảnh 5,36, lời chứng về Đức
Giê-su khẳng định hai điều: (1) Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su và (2) Cha sai
Người đến thế gian để thi hành sứ vụ. Vậy theo nghĩa rộng, nội dung lời chứng
về Đức Giê-su là những gì Tin Mừng trình bày về căn tính, nguồn gốc và sứ vụ
của Đức Giê-su. Nói cách khác, những gì Đức Giê-su đã nói và đã làm, cùng với mọi
điều tác giả nói về Người trong Tin Mừng là lời chứng xác thực và đáng tin.
6. Những kẻ chống đối khước từ lời chứng
Lời chứng ở 5,30-40 và 8,13-19 đặt trong bối
cảnh Đức Giê-su tranh luận với những kẻ chống đối (những người Do Thái, những
người Pha-ri-sêu). Đoạn văn 5,30-40 là một phần diễn từ Người nói với những người
Do Thái (5,19-47). Họ đang tìm cách giết Đức Giê-su như người thuật chuyện cho biết ý
định của họ sau dấu lạ chữa lành người bị bệnh 38 năm ở 5,18: “Vậy, vì điều này,
những người Do Thái lại càng
tìm Người để giết, vì Người không chỉ phá ngày sa-bát, nhưng còn nói Thiên Chúa
là Cha của mình, tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa.” Tiếp theo là diễn từ độc
thoại dài của Đức Giê-su (5,19-47).
Trong ch. 8, đoạn văn 8,12-59 gồm hai cuộc
tranh luận giữa Đức Giê-su (1) với những người Pha-ri-sêu (8,12-30) và (2) với
những người Do Thái (8,31-59). Tranh luận thứ hai diễn ra càng lúc càng gay gắt
và kết thúc bằng hành động ném đá ở 8,59: “Họ (những người Do Thái) liền lượm
đá để ném Người (Đức Giê-su). Nhưng Đức Giê-su ẩn mình và đi ra khỏi Đền Thờ.” Bầu
khí xung đột này giải thích tại sao những kẻ chống đối không đón nhận lời chứng
của Đức Giê-su (xem phân tích 3,11.32-33
ở trên). Qua tranh luận về lời chứng và về căn tính của Đức Giê-su, Người cho
biết tình trạng của những kẻ chống đối ở 5,30-40 và 8,13-19 diễn tả qua “10 không”:
1) “Không nghe” tiếng Chúa Cha (5,37b)
2) “Không thấy” tôn nhan Chúa Cha (5,37c)
3) “Không có” lời Chúa Cha ở lại trong mình
(5,38a)
4) “Không tin” vào Đấng Chúa Cha sai đến
(5,38b)
5) “Không muốn” đến với Đức Giê-su để có sự
sống (5,40)
6) “Không biết” Đức Giê-su từ đâu tới (8,14e)
7) “Không biết” Đức Giê-su sẽ đi đâu (8,14f)
8) “Không biết” Cha của Đức Giê-su ở đâu
(8,19a)
9) “Không biết” Chúa Cha (8,19b)
10) “Không biết” Đức Giê-su (8,19c)
Vậy những kẻ chống đối (những người Do Thái, những
người Pha-ri-sêu trong Tin Mừng) đã không nghe, không thấy, không có, không tin,
không muốn và không biết những điều căn bản trên đây. Không biết nhiều điều như
thế, thiếu sót nhiều như thế, thì không ngạc nhiên khi họ không đón nhận lời
chứng của Đức Giê-su và tìm cách giết Người. Các nhận định của Đức Giê-su về nhóm chống đối như trên cần được
hiểu theo hướng tích cực, đó là những lời giáo huấn và mặc khải. Nghĩa là Đức
Giê-su cho những kẻ chống đối biết lý do họ không hiểu giáo huấn của Người và
không đón nhận mặc khải về căn tính và nguồn gốc thần linh của Người. Hai lần Đức
Giê-su mời gọi những người Do Thái trong đoạn văn 8,31-59 cho thấy ý nghĩa tích
cực của tranh luận. Người nói với họ ở 8,31: “Nếu các ông ở lại trong lời của
Tôi các ông thực sự là môn đệ của Tôi”; và ở 8,51: “A-men, a-men, Tôi nói cho
các ông: Nếu ai giữ lời Tôi sẽ không thấy sự chết đời đời.” Đức Giê-su mời gọi
các nhân vật trong câu chuyện, và câu chuyện mời gọi độc giả nhận biết Đức Giê-su
là ai, đón nhận lời chứng của Người và tin vào Người để có sự sống đích thực.
Kết luận
Đề tài lời chứng và làm chứng của Đức Giê-su và
của Chúa Cha được tóm kết qua ba điểm: (1) lời chứng ở 3,11.32-33; (2) lời chứng
ở 8,13-19 và (3) những kẻ khước từ được mời gọi nhận biết và tin.
(1) Ở 3,11 và 3,32-33, Đức Giê-su làm chứng về
điều Người “đã thấy” và “đã nghe” từ nơi Cha. Người làm chứng qua lời nói và
việc làm của Người trong sứ vụ. Lời chứng của Đức Giê-su không được nói đến ở
5,30-40, vì theo thuyền thống Do Thái người làm chứng về chính mình thì không
thật. Nên Người liệt kê bốn lời chứng về Người: lời chứng của Gio-an, lời chứng
qua những việc Người làm, lời chứng của Kinh Thánh, đặc biệt là lời chứng của
Chúa Cha. Bài viết này chưa phân tích đề tài Kinh Thánh
làm chứng, vì liên hệ giữa Tin Mừng Gio-an và Kinh Thánh là đề tài lớn, nên được
tìm hiểu trong các bài viết khác.
(2) Trong đoạn văn 8,13-19, Đức Giê-su lại cho
biết: Người làm chứng về chính mình và lời chứng của Người là thật, bởi vì Người
biết Người từ đâu tới và đi đâu. Theo Lề Luật lời chứng của hai người là thật, đó
là lời chứng của Đức Giê-su và Chúa Cha. Đây là lời chứng
của Thiên Chúa và của Con Thiên Chúa chứ không phải của người phàm, nên xác
thực và đáng tin cách tuyệt đối.
(3) Trong cả hai đoạn văn 5,30-40; 8,13-19, những
kẻ chống đối khước từ lời chứng. Lý do họ không đón nhận
lời chứng là vì đang ở trong tình trạng “10 không” (xem liệt kê trên đây). Giọng
văn tranh luận nhằm mục đích giáo huấn. Qua những lời tố cáo mạnh mẽ, Đức
Giê-su mời gọi những kẻ chống đối nhận ra sự thiếu sót của họ và mở lòng đón
nhận Đức Giê-su để có sự sống đích thực Đức Giê-su ban tặng. Ở cấp độ bản văn, người
thuật chuyện mời gọi độc giả xác tín vào lời chứng của Đức Giê-su, đón nhận
giáo huấn của Người như là “lương thực trường tồn cho sự sống đời đời” (6,27b)./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét