07/04/2020

Ánh sáng và bóng tối trong Tin Mừng Gio-an



Bài viết tiếng Pháp:

Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 07 tháng 04 năm 2020.


Nội dung

Dẫn nhập
I. Ánh sáng
    1. Từ ngữ
    2. Nghĩa đen và nghĩa biểu tượng
    3. Đức Giê-su là ánh sáng
II. Bóng tối
    1. Từ ngữ
    2. Nghĩa đen và nghĩa biểu tượng của “skotia 
    3. “Skotia” và “skotos” (bóng tối)
Kết luận




Dẫn nhập

Cặp từ đối lập “ánh sáng” và “bóng tối” là đề tài quan trọng trong Tin Mừng Gio-an. Tương phản này được trình bày như thế nào và xuất hiện ở đâu trong Tin Mừng? Nghĩa đen và nghĩa biểu tượng của “ánh sáng” và “bóng tối” liên hệ với nhau thế nào? Bài viết trả lời những câu hỏi trên qua hai mục: (I) ánh sáng; (II) bóng tối.

I. Ánh sáng

Phần này trình bày ba điểm: (1) từ ngữ; (2) nghĩa đen và nghĩa biểu tượng; (3) Đức Giê-su là ánh sáng.

    1. Từ ngữ

Trong Tin Mừng, ba từ Hy-lạp nói về đề tài ánh sáng: 23 lần danh từ “phôs” (ánh sáng); 1 lần động từ “phôtizô” (1,9); 2 lần động từ “phainô” (1,5; 5,35), hai động từ này có nghĩa: “chiếu sáng”, “chiếu soi” (illuminer, briller, luire, apparaître) tuỳ theo mạch văn. (Xem mục từ liên quan đến ánh sángbóng tối).

23 lần danh từ “phôs” tìm thấy ở ch. 1–12: 1,4.5.7.8a.8b.9; 3,19a.19b.20a.20b.21; 5,35; 8,12a.12b; 9,5; 11,9.10; 12,35a.35b.36a.36b.36c.46. Trong phần Ga 13–21 không xuất hiện danh từ “phôs”. Bài viết chỉ phân tích danh từ này.

    2. Nghĩa đen và nghĩa biểu tượng

Trong Tin Mừng, đề tài “ánh sáng” dùng theo nghĩa đen, nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học. Thông thường nghĩa đen dẫn đến nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học. Chẳng hạn, Đức Giê-su tuyên bố ở 11,9-10: “9 Ban ngày chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng (phôs) của thế gian này. 10 Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì ánh sáng (phôs) không ở trong người ấy.” (Xem Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ). Từ nghĩa đen: “đi ban ngày thì không vấp ngã”; “đi ban đêm, thì vấp ngã” gợi đến nghĩa thần học của hai kiểu nói: “thấy ánh sáng của thế gian này” (11,9) và “ánh sáng ở trong người ấy”. Thật vậy, bao lâu Đức Giê-su còn hiện diện thì bấy lâu con người có thể “thấy Đức Giê-su” là ánh sáng của thế gian. Ai tin vào Người thì “ánh sáng ở trong người ấy” nên sẽ không vấp ngã. Như thế, nghĩa đen của từ “ánh sáng” ở 11,9-10 gợi đến nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học của từ này.

    3. Đức Giê-su là ánh sáng

Một trong những điểm thần học quan trọng của Tin Mừng là Đức Giê-su đồng hoá với ánh sáng. Đề tài này xuất hiện ba lần, Đức Giê-su tuyên bố Người là ánh sáng qua kiểu nói đặc trưng: (1) “egô eimi…” (chính Tôi là) ở 8,12; (2) “eimi” (Thầy là) ở 9,5; và (1) “egô” (chính Tôi) ở 12,46.

(1) Lần thứ nhất, Đức Giê-su nói với những kẻ chống đối Người trong bối cảnh tranh luận ở 8,12: “Chính Tôi là (egô eimi) ánh sáng (phôs) của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng (phôs) của sự sống.” Trong lời này, trước hết Đức Giê-su đồng hoá Người với ánh sáng, sau đó mời gọi bước theo Người, nghĩa là trở thành môn đệ. Nhờ vậy, “chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối” nghĩa là bước đi trong ánh sáng, có ánh sáng là chính Đức Giê-su, soi sáng và hướng dẫn. Nói theo bản văn là “có ánh sáng của sự sống”. “Đức Giê-su - ánh sáng” biểu tượng cho sự sống, Người ban sự sống và chính là sự sống; vì Người là “sự sống lại và là sự sống” (11,25).

(2) Lần thứ hai, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 9,5: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là (eimi) ánh sáng (phôs) của thế gian.” Đức Giê-su là ánh sáng, nên Người làm cho người mù từ thuở mới sinh được thấy ánh sáng (Ga 9,1-41). Khi Đức Giê-su làm cho anh mù được thấy về thể lý, chỉ mới là khởi đầu của hành trình “thấy thực sự” nghĩa là tin. Thật vậy, cuối ch. 9, sau khi bị giới lãnh đạo Do Thái trục xuất (9,34), “anh mù được thấy” gặp lại Đức Giê-su và tuyên xưng lòng tin vào Người: “Tôi tin, thưa Ngài” (9,38). Chỉ lúc này anh mù mới thực sự sáng mắt theo nghĩa thần học: tin vào Đức Giê-su là ánh sáng. Chỉ sau khi  tuyên xưng lòng tin, dấu lạ mới kết thúc. Vậy theo Tin Mừng, “thấy đích thực” đồng nghĩa với tin vào Đức Giê-su. Nên người thấy thể lý có thể là người mù nếu không tin (9,39-41).

(3) Lần thứ ba, Đức Giê-su vừa đồng hóa Người với ánh sáng, vừa nối kết với hành động “tin”. Trong phần tóm kết sứ vụ, Đức Giê-su tuyên bố ở 12,46: “Chính Tôi (egô) ánh sáng (phôs) đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối.” Câu này có hai yếu tố mới so với tuyên bố ở 8,12. Thật vậy, ở 8,12 Đức Giê-su mời gọi “theo” Người để không “bước đi” trong bóng tối. Ở 12,46, Người dùng hai động từ khác: “tin” và “ở lại”. Bất cứ ai tin vào Người thì không “ở lại” trong bóng tối. Vậy “theo” Đức Giê-su có nghĩa là “tin” vào Người, còn “bước đi” trong bóng tối và “ở lại” trong bóng tối, là “thuộc về” bóng tối. Người ấy không có ánh sáng của sự sống và sẽ hư mất.  

Tóm lại, trong cả ba trường hợp, mặc khải về Đức Giê-su là ánh sáng luôn kèm theo lời mời gọi, minh nhiên hay mặc nhiên, tin vào Người. Ai tin thì có ánh sáng, không bị vấp ngã (8,12), thấy ánh sáng (9,5) và không ở lại trong bóng tối (12,46).

II. Bóng tối

Đề tài này được tìm hiểu qua ba điểm: (1) từ ngữ; (2) nghĩa đen và nghĩa biểu tượng của “skotia; (3) Skotia” và “skotos” (bóng tối).

    1. Từ ngữ

Tin Mừng Gio-an dùng hai danh từ Hy-lạp: “skotia” và “skotos” để chỉ “bóng tối”, “sự tối tăm”, “đêm tối”. Danh từ “skotia” xuất hiện 8 lần ở 1,5a.5b; 6,17; 8,12; 12,35a.35b.46; 20,1. Danh từ “skotos” chỉ xuất hiện 1 lần ở 3,19. Trong Tin Mừng Nhất Lãm từ “skotos” được dùng nhiều hơn (Mt: 7 lần; Mc: 1 lần; Lc: 4 lần).

Trong Tin Mừng Gio-an, “bóng tối” thường đối lập với “ánh sáng”. Có hai nơi “ánh sáng” không đối lập với “bóng tối”: lần thứ nhất, sau dấu lạ bánh và cá hóa nhiều (6,1-16), các môn đệ xuống thuyền vào lúc: “Trời đã tối (skotia) và Đức Giê-su chưa đến với các ông” (6,17). Lần thứ hai xảy ra “vào ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ lúc sáng sớm, khi trời còn tối (skotia)” (20,1).

Ngoài hai nơi trên, ở tất cả những nơi khác (năm chỗ), “bóng tối” (skotia, skotos) đối lập với “ánh sáng”: 1,5; 3,19; 8,12; 12,35 và 12,46. Cuộc chiến giữa “ánh sáng” và “bóng tối” đã xuất hiện trong lời tựa sách Tin Mừng ở 1,5 (xem 2. Nghĩa đen và nghĩa biểu). Sau đó đề tài này được triển khai trong sứ vụ Đức Giê-su, mở đầu đề tài với lời Đức Giê-su ở 3,19-21 (xem 3. “Skotia” và “skotos), tiếp theo đề tài “ánh sáng – bóng tối” xuất hiện ở 8,12; 12,35 và 12,46. 

    2. Nghĩa đen và nghĩa biểu tượng của “skotia  

Cũng như “ánh sáng”, danh từ “bóng tối” (skotia) vừa có nghĩa đen, vừa có nghĩa thần học. Thông thường, nghĩa đen gợi đến nghĩa biểu tượng. Phần sau trình bày từ “bóng tối” (skotia) trong bốn câu: (1) 1,5; (2) 6,17; (3) 8,12; (4) 12,35.

(1) Tác giả lời tựa viết ở 1,5: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối (skotia), và bóng tối (skotia) đã không lấn át (katelaben) được ánh sáng.” Danh từ “skotia” (bóng tối) ở 1,5 là chủ từ của động từ “katalambanô” (lấn át, nắm bắt), nên “bóng tối” ở đây nói đến con người và quyền lực đen tối.

(2) Người thuật chuyện kể ở 6,16-18: “16 Chiều đến, các môn đệ của Người xuống bờ Biển Hồ, 17 và xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um, bên kia Biển Hồ. Trời đã tối (skotia) và Đức Giê-su chưa đến với các ông. 18 Biển động vì gió thổi mạnh.” Ở 6,17, từ “skotia” (bóng tối) có nghĩa đen: “trời đã tối”. Tuy nhiên những gợi ý trong trình thuật cho phép hiểu theo nghĩa biểu tượng. Các môn đệ vất vả chèo thuyền trong bóng đêm, khi biển động và gió mạnh. Sự thiếu vắng Đức Giê-su và chi tiết biển động mạnh gợi đến khủng hoảng của các môn đệ trong Tin Mừng, đặc biệt ở (a) cuối ch. 6, (b) trong ch. 14–16 và (c) gợi về khủng hoảng của cộng đoàn cuối thế kỷ I.

(a) Cuối ch. 6, các môn đệ rơi vào tình trạng khủng hoảng nặng nề. Sau khi nghe diễn từ bánh sự sống (6,25-59), nhiều môn đệ nói ở 6,60: “Lời này chướng tai quá! Ai có thể nghe nổi?” Hậu quả là có nhiều môn đệ bỏ đi không theo Đức Giê-su nữa (6,66). Hơn thế, Đức Giê-su còn thông báo về Giu-đa, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, là người sẽ nộp Thầy ở 6,70: “Chẳng phải chính Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em là quỷ.” Người thuật chuyện cho độc giả biết ở 6,71: “Người (Đức Giê-su) nói về Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt; vì ông ấy sẽ nộp Người, một người trong Nhóm Mười Hai.” Khủng hoảng tỏ lộ trong tương phản: Si-môn Phê-rô, đại diện Nhóm Mười Hai, tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su ở 6,68-69: “68 Thưa Thầy, chúng con sẽ bỏ đi với ai? Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và đã nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” Lời này tương phản mạnh mẽ với một người trong Nhóm Mười Hai là quỷ (6,70).

(b) Trong ch. 14–16, các môn đệ đang lo âu, xao xuyến và sợ hãi trước sự ra đi của Đức Giê-su. Ch. 14 mở đầu bằng lời động viên của Đức Giê-su ở 14,1: “Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy.” Gần cuối ch. 14, Đức Giê-su lại nói với họ ở 14,27b: “Lòng anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi.” Cuối ch. 16, Người báo trước các môn đệ sẽ bị phân tán ở 16,32: “Này đến giờ  – và đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi người về nhà mình và bỏ lại Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình vì Cha ở với Thầy.”

(c) Khủng hoảng của các môn đệ gợi đến hoàn cảnh cộng đoàn Gio-an cuối thế kỷ I. Cộng đoàn đang gặp thử thách vì bị bách hại mà như thể Đức Giê-su vắng mặt và bỏ rơi cộng đoàn. Nhưng sự thật không phải như thế, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,18: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh em.” Cũng vậy, ở 6,16-18, Đức Giê-su không bỏ rơi các môn đệ, người thuật chuyện kể ở 6,19b: “Các ông thấy Đức Giê-su đi trên Biển Hồ và đang tới gần thuyền.”

(3) Ở ch. 8, Đức Giê-su nói với những người Pha-ri-sêu ở 8,12: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.” Đức Giê-su đồng hóa mình với ánh sáng và giải thoát những ai “theo” Người khỏi “bóng tối”. Cặp từ “ánh sáng - bóng tối” ở 8,12 có nghĩa thần học và tóm kết sứ vụ của Đức Giê-su trong Tin Mừng: Người đến trong thế gian để giải thoát con người để ai tin thì không bước đi trong bóng tối.

(4) Trong ch. 12, Đức Giê-su nói với đám đông ở 12,35: “Còn một ít thời gian nữa, ánh sáng ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người còn có ánh sáng, để bóng tối không bắt được các người. Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu.” Đề tài ánh sáng và bóng tối ở 12,35, dựa trên nghĩa đen để diễn tả nghĩa biểu tượng và thần học. Bao lâu Đức Giê-su chưa bước vào cuộc Thương Khó thì bấy lâu vẫn còn ánh sáng. Nhưng chỉ còn một ít thời gian nữa thôi, vì sứ vụ đã đến hồi kết thúc, đêm tối sự chết đang đến gần. Ai bước đi không có ánh sáng, nghĩa là bước đi không có Đức Giê-su, thì không biết mình đi đâu (12,35c), người ấy ở trong bóng tối của sự chết. Tóm lại, từ “bóng tối” (skotia), minh nhiên hoặc mặc nhiên, gợi đến nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học.

    3. “Skotia” và “skotos” (bóng tối)

Bên cạnh 8 lần danh từ “skotia”, danh từ “skotos”, chỉ xuất hiện 1 lần  ở 3,19 để nói về “yêu mến bóng tối”. Câu hỏi đặt ra là sắc thái nghĩa giữa “skotia” và “skotos” có khác nhau không, vì cả hai từ này đều có nghĩa là “bóng tối”? Có thể hiểu sự khác nhau giữa “skotia” và “skotos” qua hai nhận định sau:

(1) “Skotia” là bóng tối mà người ta không muốn rơi vào đó. Danh từ “skotia” xuất hiện ở 8,12; 12,35; 12,46 trong những kiểu nói: “không bước đi trong bóng tối” (8,12; 12,35); “không ở lại trong bóng tối” (12,46)  Đức Giê-su đến để đưa con người ra khỏi bóng tối này. Người mời gọi mọi người “theo” Người để “có ánh sáng của sự sống” (8,12).

(2) Ngược lại, danh từ “skotos” (bóng tối) ở 3,19 có sắc thái nghĩa khác. Đó là bóng tối mà người ta yêu mến, nghĩa là muốn ở lại trong đó. Đức Giê-su tuyên bố ở 3,19-20: “19 Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối (skotos) hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa. 20 Vì mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng và không đến với ánh sáng để các việc của họ khỏi bị chê trách.” Vấn đề ở đây là “yêu mến bóng tối hơn ánh sáng” (3,19b). Đoạn văn 3,19-20 có hai cặp từ tương phản: “yêu và ghét” và “ánh sáng và bóng tối”, các cặp từ tạo thành các cụm từ đối lập: “yêu mến bóng tối” (3,19) và “ghét ánh sáng” (3,20). Đoạn văn trên nói về những người, không những từ chối tin vào Đức Giê-su mà còn tìm cách để giết Người. Họ không chỉ “không đến với ánh sáng” mà còn “ghét ánh sáng” (3,20), ghét Đức Giê-su, ghét Chúa Cha và ghét các môn đệ của Người (15,18-25).

Như thế, “skotos” (bóng tối) mà người ta yêu mến có ý nghĩa sâu xa hơn: “skotos” chỉ về thế lực đen tối làm tha hóa con người, làm con người trở thành nô lệ thế lực sự dữ. Tin Mừng dùng nhiều từ để gọi thế lực này: quỷ (6,70; 8,44; 13,2), Xa-tan (13,27), thủ lãnh thế gian này (12,31; 14,30; 16,11), Ác thần (17,15). Trong viễn cảnh này, “yêu mến bóng tối (skotos)” là từ chối tin vào Đức Giê-su ở cấp độ cao nhất và dẫn đến tự kết án mình như Đức Giê-su tuyên bố ở 3,18: “Ai tin vào Người (Con Một Thiên Chúa) thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.” Loại “tình yêu bóng tối” này (3,19) báo trước xung đột và tranh luận giữa Đức Giê-su và những kẻ chống đối. Họ bảo vệ quan điểm của mình bằng mọi cách, kể cả giết Đức Giê-su. Hành động này cho thấy họ yêu mến bóng tối, thuộc về bóng tối, thuộc về quỷ (8,44). Theo Tin Mừng, lựa chọn “yêu mến bóng tối” hàm ẩn sự thù ghét và bách hại Đức Giê-su và các môn đệ (15,18–16,4a).

Kết luận

Phân tích trên cho thấy, cặp từ “ánh sáng – bóng tối” diễn tả nhiều đề tài thần học quan trọng. Sứ vụ của Đức Giê-su được trình bày như một vụ kiện giữa “ánh sáng” và “bóng tối”, giữa Thiên Chúa và Xa-tan, giữa Đức Giê-su và những kẻ chống đối. Vì là vụ kiện nên có phân biệt rõ ràng giữa “người đến với ánh sáng” và “người ghét ánh sáng”, giữa “tin” hay “không tin” vào ánh sáng là Đức Giê-su.

Đồng hóa giữa Đức Giê-su và ánh sáng giúp độc giả hiểu các kiểu nói đặc trưng của Tin Mừng: “có ánh sáng” (12,36a) là có Đức Giê-su hiện diện với mình, “tin vào ánh sáng” (12,36b) là tin vào Đức Giê-su và “trở thành con cái ánh sáng” (12,36c) là trở thành môn đệ của Người. Trong nhiều trường hợp, nghĩa đen của ánh sáng và bóng tối dẫn đến nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học. Đề tài này mặc khải căn tính Đức Giê-su và đề cao sứ vụ ban tặng “ánh sáng của sự sống” cho con người.

Tương phản ánh sáng và bóng tối xuất hiện trong lời tựa Tin Mừng (1,5) và được triển khai trong ch. 1–12. Đối lập “ánh sáng và bóng tối” xuất hiện ở đầu (3,19), ở giữa (8,12) và ở cuối (12,35; 12,46) sứ vụ Đức Giê-su nên là đề tài thần học quan trọng. Đức Giê-su mặc khải Người là ánh sáng và cho biết con người cần làm gì để “có ánh sáng” và “không bước đi trong bóng tối”. Xem đề tài ánh sáng và bóng tối trong YÊU và GHÉT trong Tin Mừng Gio-an, phần II, tr. 48-56./.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét