Bài viết
tiếng Pháp: Jn
4,44. Le prophète et sa propre patrie.
Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 24 tháng 04 năm 2020.
Nội dung
I. So sánh Ga 4,44 và Tin Mừng
Nhất Lãm
1. Tin Mừng Gio-an (Ga 4,43-45)
2. Tin Mừng Nhất Lãm
3. Ga 4,44 và Tin Mừng Nhất Lãm
II. Ga 4,44 trong bối cảnh Tin
Mừng Gio-an
1. Tình trạng bản văn Ga 4,44
2. Đức Giê-su bị khước từ ở Ga-li-lê
3. Đức Giê-su bị khước
từ ở Giu-đê
4. Người nhà không đón nhận “Lời – Đức Giê-su” (1,11)
Kết Luận
Dẫn nhập
Bài viết bổ túc đề tài “Lời
chứng của Đức Giê-su và Chúa Cha”,
trong đó đã phân tích “lời chứng” và “làm chứng” ở các nơi: Ga 3,11.32-33;
5,30-40; 8,13-19. Phần này tìm hiểu lời chứng của Đức Giê-su ở Ga 4,44: “Chính
Đức Giê-su đã làm chứng (emarturêsen) rằng: Ngôn sứ không có thế giá tại
quê hương mình.” (Xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và Ba thư). Lời Đức Giê-su được
phân tích qua hai mục: (I) so sánh Ga 4,44 với Tin Mừng Nhất Lãm; (II) Ga
4,44-45 trong bối cảnh Tin Mừng Gio-an.
I. So sánh Ga 4,44 và Tin
Mừng Nhất Lãm
Để tìm hiểu lời Đức Giê-su ở Ga 4,44, phần
này trích dẫn (1) đoạn văn Ga 4,43-45 và (2) Tin Mừng Nhất Lãm về Đức Giê-su bị
khước từ tại quê hương.
1. Tin Mừng Gio-an (Ga 4,43-45)
Sau trình thuật Đức Giê-su gặp gỡ người phụ nữ Sa-ma-ri và dân thành
Xy-kha (4,1-42), những người Sa-ma-ri xin Đức Giê-su ở lại với họ và Người đã ở
lại đó hai ngày (4,40). Người thuật chuyện kể tiếp ở 4,43-45: “43
Sau hai
ngày, Người ra khỏi nơi đó đi Ga-li-lê. 44 Chính Đức Giê-su đã làm chứng rằng:
Ngôn sứ không có thế giá tại quê hương mình. 45 Vậy khi Người đến Ga-li-lê, những
người Ga-li-lê đón tiếp Người, họ đã chứng kiến tất cả những gì Người làm tại
Giê-ru-sa-lem trong dịp lễ, vì chính họ đã đến dự lễ.” Bản văn dùng đại từ nhấn
mạnh “autos” (chính người ấy) để nói về hành động làm chứng của Đức
Giê-su. “Chính Đức Giê-su (autos gar Iêsous) đã làm chứng (emarturêsen)
rằng:...” (4,44a). Nội dung lời chứng ở 4,44b xem ra ngược với 4,45a bởi vì những
người Ga-li-lê đón tiếp Đức Giê-su, nghĩa là Người được tiếp đón tại quê hương.
2. Tin Mừng Nhất Lãm
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều thuật lại câu
chuyện Đức Giê-su không được tiếp đón tại quê nhà (Mc 6,1-6; Mt 13,53-58; Lc 4,14-30)
với một số chi tiết khác nhau và bối cảnh văn chương khác nhau. Phần sau trình
bày bối cảnh và trích dẫn (1) Mc 6,1-6; (2) Mt 13,53-58;
(3) Lc 4,14-30.
(1) Mc 6,1-6. Tin
Mừng Mác-cô đặt câu chuyện Đức Giê-su bị rẻ rúng tại quê hương mình (Mc 6,1-6)
sau trình thuật chữa lành người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia
sống lại” (Mc 5,21-43). Người thuật chuyển kể ở Mc 6,1-6: “1 Ra khỏi đó, Người (Đức
Giê-su) đến quê quán của Người và các môn đệ của Người đi theo Người. 2 Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong
hội đường, nhiều người nghe sửng sốt nói rằng: ‘Bởi đâu Ông ta được như
thế? Sự khôn ngoan được ban cho Ông ấy và những phép lạ như thế nhờ tay Ông ấy
nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Ma-ri-a và là anh
em của Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của Ông ấy không
là lối xóm với chúng ta sao?’ Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giê-su nói với họ
rằng: ‘Ngôn sứ không bị rẻ rúng ngoại trừ nơi quê hương mình, nơi những người
thân thuộc và trong gia đình mình.’ 5 Ở đó, Người không thể làm phép lạ nào, ngoại
trừ một ít bệnh nhân mà Người đã đặt
tay chữa lành cho. 6 Người ngạc nhiên vì sự không tin của họ. Rồi Người đến các
làng chung quanh mà giảng dạy.” (Xem Tin Mừng Mác-cô, Hy Lạp – Việt).
Câu Đức Giê-su nói ở Mc 6,4 áp dụng cho Người để giải thích tại sao những người
ở quê nhà không tin và không đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su đến nỗi “Người ngạc
nhiên vì sự không tin của họ” (Mc 6,6a).
(2) Mt 13,53-58. Sau
bài giảng bằng dụ ngôn ở Mt 13,1-52, Tin Mừng Mát-thêu kể về Đức Giê-su giảng
dạy tại quê nhà ở Mt 13,53-58: “53 Khi Đức Giê-su kể các dụ ngôn ấy xong,
Người đi khỏi nơi đó. 54 Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của
họ, khiến họ sửng sốt và nói : ‘Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được
những phép lạ như thế ? 55 Ông không phải là con bác thợ sao ?
Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a ; anh em của ông không phải là các ông
Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao ? 56 Và chị em của ông không phải
đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế ?’ 57 Và
họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giê-su bảo họ : ‘Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng
chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi.’ 58 Người không
làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.” (Mt và Lc lấy trong NPD/CGKPV, Kinh
Thánh, ấn bản 2011). Câu Đức Giê-su nói ở Mt 13,57b, dịch sát theo Hy-lạp:
“Ngôn sứ không bị rẻ rúng ngoại trừ nơi quê hương và trong gia đình mình.” So
với Mc 6,4 thì Mt 13,57b không có cụm từ: “nơi những người thân thuộc” (Mc 6,4c).
Câu Mt 13,57b áp dụng cho Đức Giê-su, vì dân chúng đã “vấp ngã vì Người” (Mt
13,57a) và họ không tin (Mt 13,58b); nghĩa là không đón nhận lời Đức Giê-su và
không nhận ra nguồn gốc thần linh của Người.
(3) Lc 4,14-30. Tin
Mừng Lu-ca đặt sự kiện Đức Giê-su không được đón tiếp tại quê nhà trong trình
thuật mở đầu sứ vụ. Sau trình thuật cám dỗ (Lc 4,1-13), Đức Giê-su mở đầu sứ vụ
ở Lc 4,14-39, trong phần này Đức Giê-su bị khước từ và bị chống đối tại quê nhà
được kể ở Lc 4,14-30: “14 Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở
về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. 15 Người
giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh. 16 Rồi Đức Giê-su
đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn
quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17 Họ
trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng :
18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì
Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người
đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ
được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19 công bố một năm hồng
ân của Chúa. 20 Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội
đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người
bắt đầu nói với họ : ‘Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa
nghe.’
22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ
miệng Người. Họ bảo nhau : ‘Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao ?’ 23 Người
nói với họ : ‘Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ : Thầy lang ơi, hãy
chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um,
ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào !’ 24 Người nói tiếp : ‘Tôi
bảo thật các ông : không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình. 25
Thật vậy, tôi nói cho các ông hay : vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán
suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong
nước Ít-ra-en ; 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng
chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào
thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người mắc bệnh phong ở trong nước Ít-ra-en, nhưng
không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.’ 28
Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra
khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô
Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.”
So với Mác-cô (Mc 6,1-6) và Mát-thêu (Mt 13,53-58), trình thuật Lu-ca
(Lc 4,14-30) dài hơn và có nhiều chi tiết mới. Đồng thời tình trạng bản văn Lu-ca
khá phức tạp. Chẳng hạn Lc 4,22a cho biết: “Mọi người đều tán thành và thán
phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, câu này không có ý rẻ rúng Đức
Giê-su. Trong Lu-ca chỉ có một câu hỏi dẫn đến sự khước từ Đức Giê-su: “Ông này
không phải là con ông Giu-se đó sao?” (Lc 4,22b), trong khi Mác-cô thuật lại
bốn câu hỏi (Mc 6,2b-3); Mát-thêu kể năm câu hỏi (Mt 13,54b-56) liên quan đến
sự khôn ngoan và gốc tích trần thế của Đức Giê-su. Lời châm biếm ở Lc 4,23 chỉ
có trong Tin Mừng Lu-ca. Sau lời nói về ngôn sứ không được chấp nhận tại quê
hương mình (Lc 4,24), Đức Giê-su còn minh họa bằng hai câu chuyện về ngôn sứ
Ê-li-a và Ê-li-sa (Lc 4,25-27) để tố cáo họ. Nên trình thuật kết thúc trong
xung đột cao độ: Họ kéo Đức Giê-su lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực (Lc
4,29b). Nhưng Đức Giê-su băng qua giữa họ mà đi (Lc 4,30). Tin Mừng Mác-cô và
Mát-thêu không có những chi tiết ở Lc 4,25-30.
3. Ga 4,44 và Tin Mừng Nhất Lãm
Trích dẫn bốn Tin Mừng trên đây cho thấy đã có truyền thống bản văn về việc
Đức Giê-su bị khước từ tại quê nhà. Người dùng câu tục ngữ nói về ngôn sứ để áp
dụng cho Người. So sánh dưới đây cho thấy phần mở đầu lời Đức Giê-su và nội
dung câu nói có một số chi tiết khác nhau và đặt trong bối cảnh văn chương khác
nhau:
+ Mc 6,4: “Đức Giê-su nói (elegen) với họ rằng: ‘Ngôn sứ không
bị rẻ rúng (atimos) ngoại trừ nơi quê hương mình, nơi những người thân
thuộc và trong gia đình mình.’” Câu chuyện đặt sau trình thuật “Đức Giê-su chữa
lành người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại” (Mc
5,21-43).
+ Mt 13,57b: “Đức Giê-su bảo (eipen) họ: ‘Ngôn sứ không bị rẻ
rúng (atimos) ngoại trừ nơi quê hương và trong gia đình mình’” (dịch sát
theo Hy-lạp). Trình thuật này đặt sau bài giảng bằng dụ ngôn (Mt 13,1-52).
+ Lc 4,24: “Người (Đức Giê-su) nói tiếp: ‘Tôi bảo thật (amên legô)
các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận (dektos) tại quê hương
mình.” Câu này ở sau phần Đức Giê-su đọc sách I-sai-a và giảng dạy trong hội đường
ở Na-da-rét. Lu-ca đặt câu chuyện trong phần mở đầu sứ vụ của Đức Giê-su (Lc
4,14-30).
+ Ga 4,44: “Chính
Đức Giê-su đã làm chứng (emarturêsen) rằng: ‘Ngôn sứ không có thế giá (timê)
tại quê hương mình.’” Lời này đặt sau trình thuật gặp gỡ người
Sa-ma-ri và xem ra không ăn khớp với mạch văn, vì câu tiếp theo cho biết Đức
Giê-su được tiếp đón ở Ga-li-lê (4,45a). Để hiểu ý nghĩa, cần tìm hiểu câu này trong
mạch văn và trong bối cảnh Tin Mừng.
II. Ga 4,44 trong bối cảnh Tin
Mừng Gio-an
Phần này trình bày ba mục: (1) tình trạng bản văn 4,44; (2) Đức Giê-su
bị khước từ ở Ga-li-lê; (3) Đức Giê-su bị khước từ ở Giu-đê; (4) người nhà không đón nhận “Lời – Đức Giê-su” (1,11).
1. Tình trạng bản văn Ga 4,44
Trong Tin Mừng Gio-an, câu dẫn vào lời Đức Giê-su ở 4,44a dùng động từ
“martureô” (làm chứng), trong khi Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 6,4; Mt 13,57b;
Lc 4,24) dùng động từ “legô” (nói bảo). Về nội dung lời nói, Tin Mừng
Gio-an dùng danh từ “timê” (thế giá, giá trị) với động từ “có” ở thể phủ
định: “Ngôn
sứ không có (ouk ekhei) thế giá (timên) tại quê hương mình” (Ga 4,44b). Trong khi Mác-cô và Mát-thêu dùng tính từ “atimos”
(không kính trọng, rẻ rúng) với động từ “eimi” (là) ở thể phủ định:
“Ngôn sứ không bị (ouk estin) rẻ rúng (atimos) ngoại trừ nơi quê
hương mình…” (Mc 6,4 // Mt 13,57). Lu-ca dùng tính từ “dektos” (chấp
nhận, đón tiếp) với động từ “eimi” (là) ở thể phủ định, kèm theo chỉ định
từ nhấn mạnh “oudeis” (không một ai): “Không (oudeis) một ngôn sứ
nào được chấp nhận (dektos estin) tại quê hương mình” (Lc 4,24).
Không đơn giản để giải thích lời Đức Giê-su ở Ga 4,44, vì câu này xem
ra không ăn khớp với câu trước (4,43) và câu tiếp theo (4,45). U. C. Von Wahlde
viết: “Câu này (Ga 4,44) là một trong những vấn đề nan giải hiển nhiên trong
Tin Mừng.” (“This verse is one of the notorious cruxes of the Gospel.”) (U.C. Von
Wahlde, The Gospel of John and Letters of
John, vol. 2, Grand Rapids (MI) - Cambridge, U.K, W. B. Eerdmans Publishing Company, 2010, p. 202). Trong tình trạng hiện nay, Ga 4,43-45 là phần chuyển tiếp
từ trình thuật Đức Giê-su gặp gỡ người Sa-ma-ri (4,1-42) sang câu chuyện chữa
lành con trai quan chức nhà vua (4,46-54). Tuy nhiên, hai chi tiết cho thấy
cách hành văn câu 4,44 ở ngoài mạch văn 4,43 và 4,45: (1) 4,43.45 dùng đại từ ngôi
thứ ba “Người” để nói về Đức Giê-su. Trong khi 4,44 nói rõ tên gọi “Đức Giê-su”
với đại từ nhấn mạnh: “Chính
Đức Giê-su (autos gar Iêsous) đã làm chứng rằng:...”
làm cắt ngang mạch văn. (2) Cuối câu 4,43 cho biết: “Người
ra khỏi nơi đó đi Ga-li-lê” (4,43b), ý này được nhắc lại đầu
câu 4,45: “Vậy khi Người đến Ga-li-lê, những người Ga-li-lê đón tiếp Người.” Vậy
4,45 tiếp nối tự nhiên với 4,43 hơn là với 4,44. Một số tác giả cho rằng 4,44 được
thêm vào sau, làm cắt ngang mạch văn. Câu thêm vào này nhằm nối kết với truyền
thống Nhất Lãm về việc Đức Giê-su không được tiếp đón tại quê hương mình. Câu
hỏi đặt ra là lời chứng của Đức Giê-su ở 4,44 có ý nghĩa gì trong Tin Mừng
Gio-an? Người bị khước từ ở Ga-li-lê hay ở Giu-đê?
2. Đức Giê-su bị khước từ ở Ga-li-lê
Theo truyền thống Nhất Lãm, Đức Giê-su bị khước từ tại quê hương Na-da-rét,
miền Ga-li-lê, quê hương trần thế của Đức Giê-su. Tin Mừng Gio-an cũng xác định
Đức Giê-su là người Na-da-rét khi Phi-líp-phê nói với Na-tha-na-en ở Ga 1,45:
“Đấng mà Mô-sê trong sách Luật và các ngôn sứ đã viết, chúng tôi đã gặp, đó là Đức Giê-su, con ông Giu-se, người
Na-da-rét.” Tin Mừng Nhất Lãm áp dụng từ “quê hương” (patris) trong câu
tục ngữ (Mc 6,4 // Mt 13,57; Lc 4,24) vào bối cảnh Đức Giê-su giảng dạy trong
hội đường ở quê nhà. Nghĩa là theo truyền thống Nhất Lãm, Đức Giê-su không được
đón nhận tại Na-da-rét. Trong Tin Mừng Gio-an, đề tài “bị khước từ nơi quê nhà”
không được kể lại chi tiết mà chỉ có câu Đức Giê-su nói ở Ga 4,44. Hơn nữa ngược
với điều Đức Giê-su ở Ga 4,44, người thuật chuyện cho biết ở 4,45: “Những người
Ga-li-lê đón tiếp Người.” Vậy cần tìm xem trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su
không có thế giá ở đâu?
3. Đức Giê-su bị khước
từ ở Giu-đê
Trong Ga 4, lý do khiến Đức Giê-su rời Giu-đê để đi Ga-li-lê được nói đến
ở 4,1-3: “1 Vậy khi Đức Giê-su biết những người Pha-ri-sêu nghe rằng: Đức
Giê-su thâu nạp nhiều môn đệ và làm phép rửa nhiều hơn Gio-an 2 – thực ra,
chính Đức Giê-su không làm phép rửa, nhưng là các môn đệ của Người –, 3 Người
rời bỏ Giu-đê và lại đi đến Ga-li-lê.” Vậy để tránh xung đột với những người
Pha-ri-sêu mà Đức Giê-su lánh về Ga-li-lê. Trong ch. 7, người thuật chuyện cho
biết ở 7,1: “Sau những điều đó, Đức Giê-su
đi lại trong miền Ga-li-lê; thật vậy, Người không muốn đi lại trong miền
Giu-đê, vì những người Do Thái tìm Người để giết.” Những câu
trên cho thấy giới lãnh đạo Do Thái ở Giu-đê bách hại và tìm giết Đức Giê-su.
Đặc biệt trong ch. 11, đi về Giu-đê là đi vào chỗ chết. Người thuật
chuyện kể ở 11,7-8: “7 Sau điều đó, Người (Đức Giê-su) nói với các môn đệ:
‘Chúng ta cùng trở lại Giu-đê.’ 8 Các môn đệ nói với Người: ‘Thưa Ráp-bi, mới đây những người Do Thái tìm ném
đá Thầy, mà Thầy lại đi đến đó sao?’” Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 11,15:
“Thầy mừng cho anh em, để anh em tin, Thầy đã không có mặt ở đó. Nhưng chúng ta
cùng đi đến với anh ấy (La-da-rô).” Nghe lời này, Tô-ma nói với các đồng môn ở
11,16: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chết với Thầy.” Nghĩa là ở Giu-đê,
không chỉ Đức Giê-su đối diện với cái chết mà tính mạng các môn đệ cũng lâm nguy.
Tóm lại, theo Tin Mừng Gio-an, Giu-đê là nơi Đức Giê-su bị chống đối. Người
không được đón nhận ở Giu-đê chứ không phải ở Ga-li-lê.
Trong viễn cảnh này, Giê-ru-sa-lem, ở Giu-đê, là quê hương Đức Giê-su
vì Người gọi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là “nhà Cha của Người” như Người nói với
những kẻ bán bồ câu ở 2,16: “Đem những thứ này ra khỏi đây, đừng làm nhà Cha
của Tôi thành nhà buôn bán.” Vậy nếu Giu-đê là nơi Đức Giê-su bị khước từ, thì câu
4,44 có ý nghĩa trong bối cảnh ch. 4. Đức Giê-su rời bỏ Giu-đê để tránh sự thù
nghịch của những người Pha-ri-sêu (4,1-3), vì Người không được tiếp đón ở Giu-đê
quê hương của Người (4,44) và khi Người đến Ga-li-lê thì “Những người Ga-li-lê
đón tiếp Người” (4,45b). Tuy nhiên, Tin Mừng Gio-an cũng nói đến sự khước từ
của người Ga-li-lê trong ch. 6, nên Đức Giê-su bị khước từ được hiểu theo nghĩa
rộng như đã nói trong lời tựa ở 1,11: “Người (Lời) đã đến nhà mình, và những kẻ
thuộc về Người đã không đón nhận Người.”
4. Người nhà không đón nhận “Lời – Đức Giê-su” (1,11)
Phần này trình bày ba ý: (1) đón nhận Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem; (2)
khước từ Đức Giê-su ở Ga-li-lê; (3) khước từ ở Giu-đê và ở Ga-li-lê như đã nói
trong lời tựa ở 1,11.
(1) Theo Tin Mừng Gio-an, Giê-ru-sa-lem là nơi Đức Giê-su bị chống đối,
tuy nhiên Giê-ru-sa-lem cũng là nơi đón nhận Đức Giê-su. Chẳng hạn Ni-cô-đê-mô
là người có thiện cảm với Đức Giê-su, ông đến gặp Người ban đêm (3,1-12) ở đầu Tin
Mừng và cuối Tin Mừng ông lo tẩm liệm Người (19,28-42). Xem “Ni-cô-đê-mô, hành trình từ đêm
tối đến ánh sáng.” Anh mù từ thuở mới sinh được
thấy và đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su (9,38). Ở ch. 11, nhiều người tin
vào Đức Giê-su sau khi chứng kiến dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,45). Sự
thành công của Đức Giê-su đã khiến các thượng tế quyết định giết luôn cả La-da-rô,
vì tại anh mà nhiều người Do Thái đã tin Đức Giê-su (12,10-11).
Cuối sứ vụ, nhiều người theo Đức Giê-su đến nỗi người Pha-ri-sêu nói với nhau ở
12,19: “Kìa
xem, cả thế gian đi theo Ông ấy.”
(2) Ngược lại không phải lúc nào Đức Giê-su cũng được tiếp đón ở Ga-li-lê.
Trong Ga 6, sau khi đám đông đã chứng kiến dấu lạ bánh và cá hóa nhiều ở bên
kia biển hồ Ga-li-lê, Đức Giê-su nói với họ ở 6,36: “Các ông đã thấy [Tôi] mà
các ông không tin.” Sau đó, người thuật chuyện cho biết ở 6,41-42: “41 Những
người Do Thái liền xầm xì vì Người đã nói
rằng: ‘Chính Tôi là bánh xuống từ trời.’ 42 Họ nói: ‘Ông ta chẳng phải là
Giê-su, con ông Giu-se, mà chúng ta biết cha và mẹ Ông ấy sao? Sao bây giờ Ông ta lại nói: ‘Tôi từ trời xuống’?”
(3) Thật ra có người tin vào Đức Giê-su và cũng có người khước từ, ở Giu-đê
cũng như ở Ga-li-lê. Tuy nhiên, phần kết sứ vụ Đức Giê-su vẫn nghiêng về sự
khước từ. Người thuật chuyện tóm kết ở 12,37: “Người (Đức Giê-su) đã làm quá
nhiều dấu lạ trước mặt họ, mà họ
không tin vào Người.” Vậy câu nói: “Ngôn
sứ không có thế giá tại quê hương mình” (4,44b) hiểu trong
bối cảnh Tin Mừng Gio-an là nói về khước từ của những người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem
cũng như ở Ga-li-lê. Bởi vì “nhà của Người (Lời)” trong lời tựa (1,11a) là quê hương Đức
Giê-su bao gồm dân Giu-đê và dân Ga-li-lê. Tuy vậy sự khước từ trong Tin Mừng
Gio-an tập trung vào giới lãnh đạo Do Thái, cụ thể là những người Pha-ri-sêu,
những người Do Thái và các thượng tế. Các nhóm này chống đối và tìm giết Đức
Giê-su. Vậy lời tóm kết ở 12,37 nối kết với lời tựa: “Lời – Đức Giê-su” đã đến nhà mình, và những kẻ thuộc về Người đã không đón nhận (1,11).
Kết Luận
Bối cảnh đoạn văn Ga 4,43-45
làm cho lời Đức Giê-su ở 4,44b khó giải thích, nhưng có ý nghĩa trong bối cảnh Tin
Mừng với ba ghi nhận:
1) Ga 4,44 được tác giả chèn
vào sau, làm cắt ngang mạch văn giữa 4,43 và 4,45, nhằm mục đích gợi lại truyền
thống Nhất Lãm về sự kiện Đức Giê-su không được đón nhận tại quê hương (Mt
13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14-39).
2) Nếu hiểu quê hương của Đức
Giê-su ở Giu-đê thì mạch văn 4,43-45 trở nên dễ hiểu nhưng đây là quê hương theo
nghĩa thần học. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là nhà Cha của Người (2,19). Ở đó, Người
bị giới lãnh đạo Do Thái khước từ, chống đối và tìm cách loại trừ Người.
3) Sự không tin và không đón
nhận cũng xảy ra ở Ga-li-lê (ch. 6). Nên quê hương Đức Giê-su có nghĩa rộng: nơi dân
của Người sinh sống (dân Do Thái). Sự khước từ này đã được báo trước trong lời tựa (1,11)
và được nhắc lại ở 12,37.
Tóm lại tình trạng câu 4,44 phức
tạp nhưng ý nghĩa phong phú và độc đáo. Đối với độc giả, lời chứng của Đức
Giê-su ở 4,44 cho biết Người có thể bị khước từ ngay trong Hội Thánh của Người,
ngay trong nhà của Người./.
Cam on cha da tiep tuc gui bai cho chung con qua anh Thinh, truong lop,
Trả lờiXóagiup chung con co' cai nhi`n rong rai bao quat hon.
Xin Chu'a tiep tuc ban muon an phuc cho cha va` cha co' the ve day do chung con.