Bài viết tiếng Pháp:
Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 07 tháng 04 năm 2020.
Nội dung
Dẫn nhập
I.
“Ngày” và “đêm”
II.
Một ngày sứ vụ
1. Ngày và đêm trong sứ vụ Đức Giê-su
2. Bóng tối không lấn át được ánh sáng
Kết
luận
Dẫn
nhập
Song song với tương phản “ánh sáng – bóng tối” như đã trình bày trong “Ánh
sáng và bóng tối trong Tin Mừng Gio-an”, Tin Mừng Gio-an còn dùng cặp từ Hy-lạp
tương ứng: “hêmera” (ngày) – “nux” (đêm) để diễn tả thần học. Bài
viết này tìm hiểu hai mục: (I) “ngày” và “đêm”; (II) một
ngày sứ vụ.
I.
“Ngày” và “đêm”
Tin Mừng dùng 31 lần danh từ “hêmera” (ngày, ban ngày) ở 1,39;
2,1.12.19.20; 4,40.43; 5,9; 6,39.40.44.54; 7,37; 8,56; 9,4.14;
11,6.9a.9b.17.24.53; 12,1.7.48; 14,20; 16,23.26; 19,31; 20,19.26. Danh từ “nux” (đêm, ban
đêm, đêm tối) xuất hiện 6 lần ở 3,2; 9,4; 11,10; 13,30; 19,39; 21,3.
Đề tài “ngày – đêm” song
song với “ánh sáng – bóng tối” xuất hiện ở hai nơi: 9,4-5 và 11,9-10. Đức
Giê-su nói với các môn đệ ở 9,4-5: “4 Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã
sai Thầy khi còn là ngày (hêmera); đêm (nux) đến thì không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy
còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng (phôs) của thế gian.” (Xem Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ). Trong ch. 11, Đức Giê-su nói với các
môn đệ ở 11,9-10: “Ban ngày (hêmera) chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày (hêmera) thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng
(phôs) của thế gian này. Nhưng nếu ai đi ban đêm (nux), thì vấp
ngã vì không có ánh sáng (phôs) ở nơi mình.”
Tương phản: “ngày – đêm” ở 9,4-5 và 11,9-10 song song với tương phản:
“ánh sáng – bóng tối”. Bao lâu Đức Giê-su còn hiện diện trong
thế gian thì bấy lâu còn là “ngày” (hêmera), còn có “ánh sáng” (phôs). Lúc Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó là “đêm tối” (nux), là giờ
của thế lực “bóng tối” (stokia), thế lực đen tối. Vậy cặp từ “ngày (hêmera) – đêm (nux)”
trong Tin Mừng vừa mô tả thực tế khách quan về thời gian, vừa có nghĩa biểu
tượng và ý nghĩa thần học.
II.
Một ngày sứ vụ
Các biểu tượng “ánh
sáng – bóng tối”, “ngày – đêm” dẫn đến câu hỏi: “ánh sáng ban ngày” chiến thắng
hay thất bại trước “bóng tối ban đêm”? Câu trả lời còn tùy thuộc vào cách đọc bản văn theo quan điểm nào. Hai
cách đọc dẫn đến hai kết luận ngược nhau: (1) “Bóng tối” đã thành công trong
việc loại trừ “ánh sáng” (nhìn từ phía những người chống đối), bằng chứng là Đức
Giê-su đã chết trên thập giá. (2) “Ánh sáng” đã chiến thắng “bóng tối” (khẳng
định thần học của Tin Mừng), vì chính lúc chết trên thập giá, Đức Giê-su được tôn
vinh. Để hiểu cách trình bày nghịch lý của Tin Mừng, phần sau phân tích hai
quan điểm trên qua hai đề tài: (1) ngày và đêm trong sứ vụ
Đức Giê-su; (2) bóng tối không lấn át được ánh sáng.
1. Ngày và đêm trong sứ vụ Đức Giê-su
Trong thực tế lịch sử, quan điểm cho rằng bóng tối đã loại trừ được ánh
sáng; bóng tối đã chiến thắng ánh sáng không phải là không có cơ sở. Bằng chứng
hiển nhiên là Đức Giê-su là ánh sáng, nhưng đã tắt; Người đã chết treo trên
thập giá. Tôn trọng sự kiện lịch sử này, Tin Mừng trình bày sứ vụ Đức Giê-su
như một ngày làm việc. Người bắt đầu sứ vụ lúc sáng sớm và kết thúc vào lúc
chiều tối. Điều này được mô tả trong Tin Mừng như sau: (1) bình minh trong lời
tựa (1,1-18); (2) giữa trưa ở ch. 8–9; (3) chiều tối ở ch. 11–12; và (4) đêm tối
ở ch. 11–18.
(1) Trong lời tựa
Tin Mừng, người thuật chuyện giới thiệu Lời (Logos) là ánh sáng đã đến
thế gian (1,9). Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa nhân loại (1,14). Như
thế, bình minh sứ vụ Đức Giê-su được nói đến trong lời tựa (1,1-18). Người xuất
hiện lần đầu tiên trong Tin Mừng ở 1,29, quy tụ các môn đệ (1,35-51) và khởi
đầu rao giảng và làm các dấu lạ (2,1).
(2) Ngày sứ vụ đến giữa trưa trong ch. 8–9. Khi tranh luận với giới lãnh
đạo Do-thái, Đức Giê-su tuyên bố ở 8,12: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian.
Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của
sự sống.” Sang ch. 9, Người không nói với những kẻ chống đối, nhưng với các môn
đệ ở 9,4-5: “4 Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là
ngày; đêm đến thì không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở trong thế
gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.” Trong ch. 8–9, hai lần Đức Giê-su khẳng
định Người là ánh sáng (8,12; 9,5). Như thế, ch. 8–9 là đỉnh cao của ngày sứ vụ,
là lúc giữa trưa, ở giữa sách Các dấu lạ (Ga 1–12).
(3) Sứ vụ Đức
Giê-su ngả về chiều ở ch. 11–12. Trong ch. 11, Đức Giê-su đang đối diện với cái
chết, đêm tối đã gần. Các môn đệ nói với Người ở 11,8: “Thưa Ráp-bi, mới đây
những người Do Thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại đi đến đó sao?” Người trả lời
họ ở 11,9-10: “9 Ban ngày chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không
vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. Còn ai đi ban đêm thì vấp
ngã vì ánh sáng không ở trong người ấy.” Qua lời này Đức Giê-su động viên các
môn đệ can đảm lên đường đi Bê-tha-ni-a để “đánh thức” La-da-dô. Dù nguy hiểm đến
tính mạng nhưng đã có Đức Giê-su là ánh sáng ở với họ thì chết thể lý chỉ là giấc
ngủ (11,11). Trong bối cảnh này, Tô-ma, nói với các môn đệ
khác ở 11,16: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chết với Thầy.” Gọi La-da-rô
ra khỏi mồ là dấu lạ cuối cùng trong sứ vụ. Sau dấu lạ này, Thượng Hội đồng Do
Thái đã họp và quyết định giết Đức Giê-su (11,47-54). Người kết thúc sứ vụ trong ch. 12, khi ánh sáng
sắp tắt, Người mời gọi đám đông ở 12,36a: “Khi các người có ánh sáng, hãy tin
vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng.”
(4) Trong ch. 13,
khi Giu-đa rời bữa ăn cuối cùng giữa Đức
Giê-su và các môn đệ, để thực hiện ý định nộp Thầy, thì trời tối (nux).
Người thuật chuyện kể ở 13,30: “Sau khi nhận lấy miếng bánh, ông ấy (Giu-đa) đi
ra ngay lập tức. Lúc đó, trời đã tối (nux).” “Trời tối” theo nghĩa đen, đồng
thời gợi đến nghĩa biểu tượng: “sự đen tối” trong lòng Giu-đa, vì ông đang thực
hiện công việc của thế lực bóng tối. Mở đầu trình thuật Thương Khó (ch. 18–19),
người thuật chuyện cho biết ở 18,3: “Giu-đa dẫn một cơ đội và các thuộc hạ của
các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu, ông ấy đến đó với đuốc, đèn và khí giới” để
bắt Đức Giê-su. Chi tiết “đèn, đuốc” cho thấy họ đến ban đêm. Vậy “việc làm đen
tối” được thực hiện trong “đêm tối”. Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su là
đêm tối, ánh sáng đã tắt khi Người trút hơi thở cuối cùng trên thập giá (19,30).
(Xem M. Gourgues, En Esprit et
en Vérité, Piste d’exploitation de l’évangile de Jean, Montréal, Médiaspaul, 2002, p. 29-43).
2. Bóng tối không lấn át được ánh sáng
Theo thần học Tin
Mừng, bóng tối ban đêm không lấn át được ánh sáng ban ngày. Sự kiện lịch sử là Đức
Giê-su đi vào đêm tối qua cái chết của Người, nhưng thần học Tin Mừng không
dừng lại ở đó. Nội dung Tin Mừng cho thấy ánh sáng đã chiến thắng bóng tối qua ba
điểm: (1) lời tựa Tin Mừng (1,1-18) và lời Đức Giê-su trong đoạn văn 3,13-21; (2)
Đức Giê-su báo trước ánh sáng sẽ chiến thắng bóng tối; (3) Hiểu đề tài ánh sáng
và bóng tối trên hai bình diện khác nhau.
(1) Tác giả Tin
Mừng đề nghị cách hiểu biến cố theo quan điểm của Đức Giê-su: ánh sáng đã thực
sự chiến thắng bóng tối. Chiến thắng này được khẳng định qua tác giả Tin Mừng và
mặc khải của Đức Giê-su. Trong lời tựa Tin Mừng, tác giả báo trước “ánh sáng” sẽ
chiến thắng “bóng tối” ở 1,5: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối
đã không lấn át được ánh sáng.” Trong đoạn văn 3,13-21, Đức Giê-su
nói về tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian (3,16-17) trước khi nói đến
thái độ tiêu cực của con người trước ánh sáng: “yêu mến bóng tối” và “ghét ánh
sáng” (3,19-20).
(2) Đức Giê-su nhiều lần báo trước sự chiến thắng của ánh sáng và sự thất bại
của bóng tối. Khi Giờ của Người đã đến, Người nói với đám đông ở 12,31: “Bây
giờ là lúc xét xử thế gian này. Bây giờ thủ lãnh thế gian này sẽ bị tống ra
ngoài.” Cuối ch. 14, Đức Giê-su nói với các môn đệ về thế lực đen tối ở 14,30-31a:
“30 Thầy sẽ không còn nói
nhiều với anh em nữa vì thủ lãnh của thế gian đang đến. Nó không có gì trên
Thầy, 31a nhưng để thế gian biết rằng: Thầy yêu mến Cha và như Cha đã truyền
cho Thầy thế nào, Thầy làm như vậy.” Trong ch. 16, Đức Giê-su cho các môn đệ biết ở 16,11: “Thủ lãnh của thế gian này đã bị
xét xử.” Cuối ch. 16, Đức Giê-su khẳng định Người đã chiến thắng thế gian, khi
nói với các môn đệ ở 16,33b: “Trong thế gian, anh em có sự khốn khó, nhưng anh
em hãy can đảm, Chính Thầy đã thắng thế gian.” Vậy Đức Giê-su là ánh sáng, đã chiến
thắng trong vụ kiện giữa “ánh sáng” và “bóng tối”. Nhưng chiến thắng này được
trình bày cách nghịch lý: chiến thắng thế lực đen tối bằng cái chết trên thập
giá.
(3) Theo Tin Mừng,
hai thế lực “ánh sáng ban ngày” và “bóng tối ban đêm” không ở trên cùng một bình
diện. Bóng tối hiện diện là do con người từ chối đón nhận ánh sáng. G. Stemberger
viết: “Với sự tự do Thiên Chúa đã ban cho con người, bóng tối nẩy sinh khi con
người nói không với ánh sáng của Thiên Chúa. Vì thế, bóng tối là sự hư vô mà
người ta ưa chuộng hơn sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bóng tối không phải là một
cái gì có sự bền vững tự nó, nhưng bóng tối là sự phủ định (ánh sáng).” (G. Stemberger, La symbolique du bien et du mal
selon saint Jean, (Parole de Dieu), Paris, Le Seuil, 1970,
tr. 46). Về thực chất, không có đối lập ngang hàng giữa ánh
sáng ban ngày và bóng tối ban đêm. “Bóng tối” ám chỉ thế lực chống đối và thù
ghét đã từ chối đón nhận “ánh sáng”. Tin Mừng trung thành thuật lại biến cố thập
giá và mời đọc độc giả nhận ra ý nghĩa thần học của biến cố này. Qua thập giá, Đức
Giê-su về với Cha và Người được Cha tôn vinh. Điều này minh chứng sự chiến
thắng của ánh sáng ban ngày. Đây là chiến thắng mang tính quyết định, một lần
cho tất cả. Khi Đức Giê-su được tôn vinh trên thập giá, ánh sáng đã hoàn toàn
chiến thắng bóng tối. Thế lực đen tối là Quỷ, Xa-tan và những kẻ chống
đối Đức Giê-su đã hoàn toàn bị đánh bại. Xem bài viết: “Biểu tượng ánh sáng trong
Tin Mừng Gio-an.”
Kết
luận
Tin Mừng trình bày mặc khải thần học bằng cách thuật lại câu chuyện và cho
biết ý nghĩa thần học của nó. Cần hiểu cuộc đời Đức Giê-su trên cả hai bình diện: lịch sử và
thần học. Trên bình diện lịch sử, thế lực bóng tối đã loại trừ được ánh sáng ra
khỏi thế gian. Trên bình diện thần học, giờ chết của Đức Giê-su là giờ Người
được tôn vinh, giờ Người về với Cha, giờ Người chiến thắng thế gian, chiến thắng
thế lực bóng tối. Hai bình diện này tồn tại song song, nên vụ kiện giữa “ánh sáng
ban ngày” và “bóng tối ban đêm” vẫn còn tiếp diễn nơi cộng đoàn Gio-an vào cuối
thế kỷ I và còn kéo dài mãi trong lịch sử nhân loại.
Đức Giê-su là ánh sáng đến thế gian, sự xuất hiện của Người đặt nhân loại
trước một vụ kiện lớn giữa “ánh sáng” và “bóng tối”. Mỗi người trong dòng lịch
sử, mọi nơi, mọi thời, cần lựa chọn đứng về phía nào trong vụ kiện này: “Đến
với ánh sáng” (3,21) hay “yêu mến bóng tối” (3,19) và “ghét ánh sáng” (3,20);
thuộc về Thiên Chúa (8,47) hay thuộc về quỷ (8,44). Hai cặp từ “ánh sáng và
bóng tối”, “ngày và đêm” là hai cột trụ xây dựng thần học Tin Mừng. Qua đó tình
yêu và ý định cứu độ của Thiên Chúa được tỏ lộ; đồng thời tùy theo cách đáp trả của con
người, đón nhận hay khước từ ánh sáng, mà con người được cứu hay bị hư mất. Với những hình ảnh khái quát: ánh sáng ban
ngày, bóng tối ban đêm, Tin Mừng mời gọi mọi người “đến với ánh sáng” (3,21),
“tin vào ánh sáng” (12,36) và “bước đi trong ánh sáng” (8,12; 11,10) để có ánh
sáng của sự sống (8,12).
Tin Mừng tôn trọng
biến cố lịch sử: Đấng ban sự sống đã chết. Qua đó giúp độc giả hiểu ý nghĩa thần
học của biến cố Thương Khó. Nhận biết Đức Giê-su đã chết và đã được tôn vinh. Người
là “Chúa” (kurios) và là “Thiên Chúa” (theos) như Tô-ma đã tuyên
xưng ở 20,28 là bằng chứng hùng hồn về sự chiến thắng của ánh sáng trên bóng
tối. Xem phân tích trong YÊU
và GHÉT trong Tin Mừng Gio-an, phần II, tr. 57-67.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét