19/04/2020

Lời chứng của Gio-an (Ga 1,6-8.19-34; 3,31-36; 5,33)


Bài viết tiếng Pháp:

Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 19 tháng 04 năm 2020.


Nội dung

Dẫn nhập
I. Lời chứng của Gio-an
    1. Gio-an làm chứng về mình (1,19-34)
    2. Gio-an làm chứng về Đức Giê-su 1,6-8.19-34
    3. Gio-an làm chứng về Đức Giê-su 3,31-36
II. Đức Giê-su nhắc lại lời chứng của Gio-an (5,33)
Kết luận




Dẫn nhập

Bài viết “Lời chứng và làm chứng (TM Gio-an)” đã bàn về các nơi và số lần danh từ “lời chứng” (marturia) và động từ “làm chứng” (martureô) xuất hiện trong Tin Mừng thứ tư. Bài viết này tìm hiểu “lời chứng” và “làm chứng” của Gio-an (Tẩy Giả) trình bày qua danh từ “lời chứng” (2 lần: 1,7.19) và động từ “làm chứng” (7 lần: 1,7.8.15.32.34; 3,26; 5,33). Đề tài được phân tích qua hai mục: (I) lời chứng của Gio-an; (II) Đức Giê-su nhắc lại lời chứng của Gio-an (5,33).

I. Lời chứng của Gio-an

Ba lần trong Tin Mừng, nói về lời chứng của Gio-an: (1) lời tựa 1,6-8.15 và đoạn văn về lời chứng của ông ở 1,19-34; (2) diễn từ độc thoại của ông ở 3,31-36; (3) Đức Giê-su nhắc lại lời chứng của ông ở 5,33.

(1) Trong các đoạn văn về Gio-an ở 1,6-8.15.19-34, danh từ “lời chứng” (marturia) xuất hiện hai lần ở 1,7a: “Ông ấy (Gio-an) đến làm chứng”; và ở 1,19: “Và đây là lời chứng của Gio-an…” (Xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư). Trong câu  “Ông ấy đến làm chứng” (1,7a) có danh từ  “lời chứng”, dịch sát: “Ông ấy đến vì (cho) lời chứng (houtos êlthen eis marturian)”, (“he came for testimony”). Tin Mừng dùng 2 lần danh từ “lời chứng” ở 1,7.19 để nói về Gio-an, những nơi khác dùng động từ “làm chứng”. Trong các đoạn văn: 1,6-8.15.19-34, xuất hiện 5 lần động từ (1,7.8.15.32.34).

(2) Trong phần độc thoại ở 3,31-36, Gio-an làm chứng về Đức Giê-su. Trong đoạn văn 3,31-36, không xuất hiện danh từ và động từ nói về lời chứng của Gio-an. Trước đoạn văn này có 1 lần động từ “làm chứng”, khi các môn của Gio-an nhắc lại lời chứng của thầy ở 3,26: “Thưa Ráp-bi, người đã ở với thầy bên kia Gio-đan, người mà chính thầy đã làm chứng, xem kìa, Ông ấy làm phép rửa, và mọi người đến với Ông ấy.”

(3) Trong đoạn văn 5,33-36, Đức Giê-su gián tiếp nhắc lại “lời chứng” của Gio-an trong bối cảnh tranh luận với những người Do Thái. Gọi là “gián tiếp” vì ở 5,33-36, Đức Giê-su không trực tiếp dùng danh từ “lời chứng” để nói về lời chứng của Gio-an. Người nói với những người Do Thái ở 5,36: “Nhưng Tôi, Tôi có lời chứng lớn hơn (lời chứng) của Gio-an (Egô de ekhô tên marturian meizô tou Iôannou), đó là những việc mà Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng.” Từ “lời chứng” của Gio-an được hiểu ngầm trong mạch văn 5,36a. (Xem phân tích trong mục II dưới đây).

Nội dung lời chứng của Gio-an được trình bày qua ba điểm: (1) Gio-an làm chứng về mình (1,19-34); (2) Gio-an làm chứng về Đức Giê-su ở 1,6-8.19-34; (3) Gio-an làm chứng về Đức Giê-su ở 3,31-36.

    1. Gio-an làm chứng về mình (1,19-34)

Trước khi làm chứng về Đức Giê-su, Gio-an làm chứng bằng cách nói không về mình (1,20.21a.21b), sau đó ông xác định rõ vai trò của ông. Phần này tìm hiểu ba điểm: (1) Gio-an không là…; (2) Gio-an là… (3) làm phép rửa trong nước.

(1) Gio-an không phải là Đấng Ki-tô (1,20), không phải là Ê-li-a (1,21a), không phải là vị ngôn sứ (1,21b). Sau lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18), người thuật chuyện mở đầu đoạn văn về lời chứng của Gio-an ở 1,19: “Và đây là lời chứng của Gio-an, khi những người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem cử các tư tế và các Lê-vi đến [với ông ấy] để họ hỏi ông ấy: ‘Ông là ai?’” Gio-an trả lời “không” ba lần ở 1,21-21: “20 Ông ấy (Gio-an) tuyên xưng chứ không chối, Ông ấy tuyên xưng rằng: ‘Chính tôi không phải là Đấng Ki-tô.’ 21 Họ hỏi ông ấy: ‘Vậy thì sao? Ông là Ê-li-a phải không?’ Ông ấy nói: ‘Không phải tôi.’ – ‘Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?’ Ông ấy đáp: ‘Không.’” Xem bài viết “Gio-an không là và là Ê-li-a, mâu thuẫn hay bổ sung? (Ga 1,21; Mt 17,13).

(2) Sau đó Gio-an nói về sứ vụ của ông ở 1,23: “Tôi là tiếng kêu trong hoang mạc, hãy làm cho thẳng con đường của Chúa, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” Tiếng kêu này mời gọi “làm cho thẳng con đường của Chúa”, như ngôn sứ I-sai-a đã viết ở Is 40,3-5: “3 Có tiếng hô: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. 4 Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. 5 Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng ĐỨC CHÚA đã tuyên phán.” (Xem NPD/CGKPV, Kinh Thánh, ấn bản 2011). Trong bối cảnh này, Gio-an làm phép rửa sám hối để chuẩn bị mọi người đón nhận Đức Giê-su và tin vào Người.

(3) Ba lần Gio-an xác định ông là người “làm phép rửa trong nước” (1,26.31.33a) để phân biệt với “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” là Đức Giê-su (1,33b). Lời chứng của Gio-an ở 1,19-34, được chia thành hai đoạn văn: 1,19-28; 1,29-34 diễn ra hai thời điểm khác nhau, đoạn văn thứ hai mở đầu bằng từ “hôm sau…” (1,29a). Cụm từ “làm phép rửa trong nước” xuất hiện trong cả hai đoạn văn. Trong đoạn văn thứ nhất (1,19-28) Gio-an nói với những người chất vấn ông ở 1,26-27: “26 Chính tôi làm phép rửa trong nước. Người đang đứng giữa các ông mà các ông không biết, 27 Người đến sau tôi và [chính tôi] không xứng đáng cởi quai dép của Người.” Trong đoạn văn thứ hai (1,29-34), ông nói với mọi người ở 1,31: “Phần tôi, tôi đã không biết Người (Đức Giê-su), nhưng để Người được tỏ ra cho Ít-ra-en, vì điều này, chính tôi đến làm phép rửa trong nước.” Sau đó ông nói ở 1,33: “Phần tôi, tôi đã không biết Người. Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước, Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ở lại trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’”

    2. Gio-an làm chứng về Đức Giê-su 1,6-8.19-34

Tác giả lời tựa nói rõ Gio-an đến để làm chứng (1,6-8). Nội dung lời chứng của ông ở 1,6-8.19-34 quy về tám đề tài:

(1) Gio-an làm chứng về ánh sáng. Hai lần người thuật chuyện nói về điều này ở 1,7.8. “Ánh sáng” ở đây là “Lời” (Logos) ở 1,1-5, và là Đức Giê-su như Người khẳng định ở 8,12a: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian” và nói với các môn đệ ở 9,5: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.” Vậy “Lời – Đức Giê-su” là ánh sáng, Gio-an làm chứng chứng về ánh sáng là làm chứng về Đức Giê-su.

(2) Gio-an làm chứng là Đức Giê-su đến sau, nhưng vượt trước, và có trước ông. Người thuật chuyện kể ở 1,15: “Gio-an làm chứng về Người (Lời Nhập Thể), ông ấy hô lên rằng: ‘Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng vượt trước tôi, vì Người có trước tôi.’” Gio-an nói về điều này hai lần nữa ở 1,27.30. Trong đoạn văn 1,19-28, ông nói với những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu ở 1,27: “Người (Đức Giê-su) đến sau tôi và [chính tôi] không xứng đáng cởi quai dép của Người.” Trong đoạn văn 1,29-34, ông giới thiệu Đức Giê-su với mọi người ở 1,30: “Chính Người là Đấng mà tôi đã nói: ‘Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt trước tôi, vì Người có trước tôi.’” Xem phân tích 1,30 trong “Gio-an và Đức Giê-su (Ga 1,6-8.19-28).

(3) Gio-an làm chứng là Đức Giê-su đang ở giữa những người được sai tới với ông (các tư tế và các Lê-vi), nhưng họ không biết Người. Ông nói với họ ở 1,26: “Chính tôi làm phép rửa trong nước. Người (Đức Giê-su) đang đứng giữa các ông mà các ông không biết.” Chi tiết này cho thấy khi Đức Giê-su bắt đầu xuất hiện, giới lãnh đạo Do Thái không biết Người. Chẳng hạn, người thuật chuyện kể về Na-tha-na-en ở 1,45-46: “45 Phi-líp-phê gặp Na-tha-na-en và nói với ông ấy: ‘Đấng mà Mô-sê trong sách Luật và các ngôn sứ đã viết, chúng tôi đã gặp, đó là Đức Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét.’ 46 Na-tha-na-en nói với ông ấy: ‘Từ Na-da-rét, có thể có gì tốt?’ Phi-líp-phê nói: ‘Hãy đến và hãy xem.’” Na-tha-na-en không biết gì về Đức Giê-su trước khi Người xuất hiện thi hành sứ vụ.

(4) Gio-an làm chứng hai lần (1,29.36) rằng Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa. Trong đoạn văn thứ hai 1,29-34, người thuật chuyện kể ở 1,29: “Hôm sau, ông ấy (Gio-an) thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, ông ấy nói: ‘Đây là Chiên của Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội thế gian.’” Gio-an nhắc lại tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” ở 1,35-37: “35 Hôm sau, Gio-an lại đứng với hai người trong các môn đệ của ông ấy. 36 Và chăm chú nhìn Đức Giê-su đang đi qua, ông ấy nói: ‘Đây là Chiên của Thiên Chúa.’ 37 Hai môn đệ của ông ấy nghe nói thế, họ đi theo Đức Giê-su.” Đây là lời cuối cùng của Gio-an trong trình thuật, vì đoạn văn tiếp theo (1,38-51) nói về các môn đệ đầu tiên của Đức Giê-su. Người lên tiếng lần đầu tiên trong Tin Mừng ở 1,38b khi nói với hai môn đệ của Gio-an: “Các anh tìm gì?” (1,38b).

(5) Gio-an làm chứng là Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống và ở lại trên Đức Giê-su. Người thuật chuyện kể ở 1,32: “Gio-an làm chứng và nói rằng: ‘Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống và ở lại trên Người.’” Trong câu này, động từ “làm chứng” xác định nội dung lời chứng của Gio-an: “Thần Khí” (pneuma) đã “xuống” (katabainô) và “ở lại” (menô) trên Đức Giê-su. Gio-an nhấn mạnh điều này trong câu tiếp theo ở 1,33b: “Đấng ấy (Thiên Chúa) đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ở lại trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’”

(6) Gio-an làm chứng rằng Đức Giê-su là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tiếp theo lời chứng ở 1,32, Gio-an làm chứng về Đức Giê-su ở 1,33: “Phần tôi, tôi đã không biết Người. Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước, Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ở lại trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’” Vậy Đức Giê-su là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần, phân biệt với Gio-an Tẩy Giả là người làm phép rửa trong nước (1,26.31.33a).

(7) Gio-an làm chứng về Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Trong câu cuối đoạn văn 1,29-34, Gio-an làm chứng về một trong những tước hiệu quan trọng của Đức Giê-su qua hai động từ “thấy” (horaô) và “làm chứng (martureô) ở 1,34: “Phần tôi, tôi đã thấy và đã làm chứng rằng: Chính Người là Con Thiên Chúa.” Ở đây, không phải là người thuật chuyện nói về lời chứng của Gio-an như ở 1,19a mà chính Gio-an tuyên bố ông là người chứng kiến và làm chứng.

(8) Điều lạ lùng là Gio-an làm chứng về Đức Giê-su nhưng lại nói hai lần (1,31.33) là không biết Đức Giê-su. Ông  nói ở 1,31: “Phần tôi, tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho Ít-ra-en, vì điều này, chính tôi đến làm phép rửa trong nước”; và ở 1,33: “Phần tôi, tôi đã không biết Người. Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước, Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ở lại trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’” Mạch văn cho phép hiểu Gio-an không biết Đức Giê-su nhưng vẫn làm chứng vì hai lý do: (1) Trong lời tựa Tin Mừng, tác giả cho biết Thiên Chúa sai Gio-an đến làm chứng (1,6). Nên Thiên Chúa mặc khải cho ông về Đức Giê-su để làm chứng (1,33b). (2) Khẳng định “tôi đã không biết Người” (1,31.33) là cách Gio-an đề cao nguồn gốc huyền nhiệm của Đức Giê-su. Gio-an là người phàm làm sao biết được Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa” (1,34), là “Chiên Thiên Chúa” (1,29a.36), là “Đấng xoá bỏ tội thế gian” (1,29b)? Tuy vậy, các lời chứng của Gio-an là xác thực và đáng tin, vì ông là người được Thiên Chúa sai đi làm chứng.

    3. Gio-an làm chứng về Đức Giê-su 3,31-36

Trong đoạn văn 3,26-30, các môn đệ của Gio-an nhắc lại việc thầy của họ làm chứng về Đức Giê-su ở 3,26: “Thưa Ráp-bi, người (Đức Giê-su) đã ở với thầy bên kia Gio-đan, người mà chính thầy đã làm chứng, xem kìa, Ông ấy làm phép rửa, và mọi người đến với Ông ấy.” Câu này cho thấy Đức Giê-su cũng làm phép rửa và thành công hơn Gio-an. Để trả lời các môn đệ của mình, Gio-an tự so sánh với Đức Giê-su ba điều: (1) Gio-an không phải là Đấng Ki-tô mà là người được sai đi trước Đấng ấy (3,28b); (2) ai có cô dâu mới là chú rể, còn Gio-an là bạn của chú rể, là người hớn hở vui mừng vì tiếng nói của chú rể (3,29a); (3) nguyên tắc sống của Gio-an: “Đấng ấy (Đức Giê-su) phải lớn lên, còn thầy (Gio-an) phải suy giảm” (3,30).

Tiếp theo câu 3,30 là đoạn văn độc thoại, trình bày lời chứng của Gio-an về Đức Giê-su ở 3,31-36: “31 Đấng đến từ trên thì ở trên tất cả; kẻ bởi đất thì thuộc về đất và nói chuyện thuộc về đất. Đấng đến bởi trời [thì ở trên tất cả]; 32 điều Người đã thấy và đã nghe, Người làm chứng về điều ấy, và lời chứng của Người chẳng ai đón nhận. 33 Ai đón nhận lời chứng của Người thì xác nhận rằng: Thiên Chúa thì chân thật. 34 Vì Đấng Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Người ban Thần Khí vô ngần vô hạn. 35 Cha yêu mến Con và đã ban mọi sự trong tay Người. 36 Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời; còn ai không vâng phục Con thì sẽ không thấy sự sống, nhưng sự thịnh nộ của Thiên Chúa ở lại trên kẻ ấy.”

Vì đoạn văn 3,31-36 có nhiều đề tài song song với độc thoại của Đức Giê-su ở 3,13-21, nên có tác giả cho rằng 3,31-36 tiếp nối lời chứng của Đức Giê-su ở 3,13-21, chứ không phải của Gio-an. Tuy nhiên, trong tình trạng bản văn hiện nay, đoạn văn 3,31-36 là lời chứng của Gio-an. Điều này hợp lý vì ba lý do: (1) Lời chứng của Đức Giê-su (3,13-21) song song với lời chứng của Gio-an (3,31-36) và cả hai lời chứng này đều nói về căn tính thần linh và sứ vụ của Đức Giê-su. (2) Với tư cách là người được Thiên Chúa sai đến (1,6-7), Gio-an có đầy đủ tư cách và thẩm quyền để làm chứng về Đức Giê-su. (3) Câu Ga 3,36c nói về “sự thịnh nộ của Thiên Chúa” phù hợp với ngôn ngữ của Gio-an trong Mt 3,7-8: “7 Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông (Gio-an) nói với họ rằng: ‘Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? 8 Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.”

II. Đức Giê-su nhắc lại lời chứng của Gio-an (5,33)

Trong diễn từ dành cho những kẻ chống đối ở 5,19-47, Đức Giê-su nói đến các lời chứng trong đoạn văn 5,30-50. Xem bài viết: “Lời chứng của Đức Giê-su và Chúa Cha”. Trong đó Đức Giê-su nhắc lại lời chứng của Gio-an ở ch. 1 và ch. 3. Người nói với những người Do Thái ở 5,33-36: “33 Chính các ông đã cử người đến với Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34 Phần Tôi, Tôi không nhận lời chứng do người phàm, nhưng Tôi nói những điều này để chính các ông được cứu. 35 Ông ấy là ngọn đèn được thắp lên và toả sáng, chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông ấy. 36 Nhưng Tôi, Tôi có lời chứng lớn hơn lời chứng của Gio-an, đó là những việc mà Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng. Chính những việc Tôi làm, làm chứng về Tôi rằng: Cha đã sai Tôi.”

Theo Đức Giê-su, Gio-an “đã làm chứng cho sự thật” (5,33). Đó là “sự thật về Đức Giê-su” và “sự thật là Đức Giê-su” như Người nói với Tô-ma ở 14,6: “Chính Thầy là con đường và sự thật và sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Hơn nữa sứ vụ Đức Giê-su là “làm chứng cho sự thật” như Người nói với Phi-la-tô ở 18,37: “Chính ngài nói rằng Tôi là Vua. Vì điều này Tôi đã sinh ra, và vì điều này Tôi đã đến thế gian để làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi.” Vậy khi nói Gio-an “đã làm chứng cho sự thật” (5,33), Đức Giê-su vừa đề cao lời chứng của Gio-an vừa nói về lời chứng khác vượt trên lời chứng của ông. Đó là những việc mà Chúa Cha đã ban cho Đức Giê-su để Người thực hiện. Những việc này làm chứng rằng Chúa Cha đã sai Đức Giê-su đến thế gian (5,36) để cứu thế gian (3,16). Trong đoạn văn nói về các lời chứng: 5,30-40, Đức Giê-su còn nói về lời chứng của Chúa Cha và của Kinh Thánh.

Kết luận

Lời chứng của Gio-an về mình và về Đức Giê-su là một trong những đề tài quan trọng, diễn tả bằng 2 lần danh từ “lời chứng” và 7 lần động từ “làm chứng”. Số lần này đứng thứ hai, so với lời chứng của Đức Giê-su: 6 lần danh từ và 10 lần động từ (xem bài viết “Lời chứng của Đức Giê-su và Chúa Cha”). Lời chứng của Gio-an có uy tín và đáng tin, bởi vì ông dựa vào uy thế của Đấng sai ông đến làm chứng là Thiên Chúa (1,6). Điều độc đáo là Gio-an làm chứng về mình trước khi làm chứng về Đức Giê-su. Lời chứng của ông được tóm tắt trong hai mục: (I) Gio-an làm chứng về chính mình và (II) làm chứng về Đức Giê-su:

(I) Gio-an làm chứng về mình qua sáu ý: (1) ông không phải là Đấng Ki-tô (1,20); (2) không phải là Ê-li-a (1,21a); (3) không phải là vị ngôn sứ (1,21); (4) ông là “tiếng kêu trong hoang mạc” (1,23a); (5) “làm cho thẳng con đường của Chúa” (1,23b); (6) làm phép rửa trong nước (1,26.31.33a).

(II) Gio-an làm chứng về Đức Giê-su qua tám đề tài: (1) làm chứng về ánh sáng (1,7.8) là Đức Giê-su; (2) Đức Giê-su đến sau ông, nhưng vượt trước ông, vì Đức Giê-su có trước ông (1,15 // 1,27.30); (3) Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa (1,29.36); (4) Đức Giê-su là Đấng xoá bỏ tội thế gian (1,29); (5) Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống và ở lại trên Đức Giê-su (1,32); (6) Đức Giê-su làm phép rửa trong Thánh Thần (1,33); (7) Đức Giê-su là Con Thiên Chúa (1,34); (8) Gio-an làm chứng về nguồn gốc và sứ vụ Đức Giê-su ở đoạn văn 3,31-36.

Lời chứng của Gio-an là mặc khải quan trọng về Đức Giê-su. Nhờ đó độc giả biết Đức Giê-su là ai, sứ vụ của Người là gì, trước khi nghe giáo huấn của Đức Giê-su./.



2 nhận xét:

  1. Thưa cha, Gioan phủ nhận mình là một ngôn sứ và là Ê-li-a trong Tin Mừng Gioan, nhưng Đức Giêsu thì lại khẳng định Gioan chính là một ngôn sứ và là Ê-li-a trong Tin Mừng Matthêu. Tại sao lại có hai câu đối nghịch giữa hai tác giả?

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Xem bài viết trả lời: “Ở Ga 1,21 Gio-an Tẩy Giả không phải là Ê-li-a, nhưng ở Mt 17,13 Gio-an là Ê-li-a, mâu thuẫn hay bổ sung lẫn nhau?” đăng ngày 26 tháng 12 năm 2013 tại địa chỉ: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/12/o-ga-121-gio-tay-gia-khong-phai-la-e-li.html

      Xóa