23/02/2020

Đặc điểm và đề tài Tin Mừng Mác-cô



Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 23 tháng 02 năm 2020


Nội dung

Dẫn nhập
I. So với các Tin Mừng khác
    1. Tin Mừng ngắn nhất
    2. Ít diễn từ
    3. Mác-cô không có trình thuật thời niên thiếu
    4. Ít chỉnh sửa tài liệu biên soạn
    5. Tin Mừng kết thúc ở 16,8
II. Đặc điểm văn chương
    1. Các câu chuyện đặt kề nhau
    2. Từ ngữ lặp đi lặp lại
    3. Dùng nhiều từ gốc La Tinh
    4. Văn chương trung thực, sinh động, giàu cảm xúc
    5. Lối hành văn ngạc nhiên, bí ẩn và nghịch lý
III. Một số đề tài
    1. “Tin mừng”  
    2. Nước Thiên Chúa, triều đại Thiên Chúa
    3. Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, Con Người
    4. Nhân vật “các môn đệ”
    5. “Bí mật – công khai” về căn tính Đức Giê-su
Kết luận




Dẫn nhập

Tin Mừng Mác-cô thuộc Tin Mừng Nhất Lãm (Mt – Mc – Lc). Gọi là Nhất Lãm (Synoptique) vì ba Tin Mừng này có dàn ý và nhiều đoạn văn song song. Theo thứ tự hiện nay của bốn sách Tin Mừng (Mt – Mc – Lc – Ga), Tin Mừng Mác-cô được xếp thứ hai, sau Tin Mừng Mát-thêu, nên còn gọi là Tin Mừng thứ hai. Tuy có nhiều đoạn văn song song với các Tin Mừng khác, Mác-cô có những đặc điểm riêng về ngôn ngữ, cách trình bày và cách thức triển khai các đề tài. Bài viết này trình bày ba mục: (I) Tin Mừng Mác-cô so với các Tin Mừng khác; (II) đặc điểm văn chương và (III) một số đề tài trong Tin Mừng Mác-cô.

I. So với các Tin Mừng khác

So với các Tin Mừng khác, Tin Mừng Mác-cô có năm đặc điểm: (1) Tin Mừng ngắn nhất; (2) ít dùng diễn từ; (3) không có trình thuật thời niên thiếu của Đức Giê-su; (4) bản văn ít chỉnh sửa so với nguồn tài liệu; (5) Tin Mừng kết thúc cách lạ lùng ở 16,8.

    1. Tin Mừng ngắn nhất

Trong bốn Tin Mừng, Mác-cô là cách Tin Mừng  ngắn nhất gồm 16 chương, 678 câu; tiếp đến là Tin Mừng Gio-an: 21 chương, 879 câu; Tin Mừng Mát-thêu: 28 chương, 1.071 câu; Tin Mừng Lu-ca: 24 chương, 1.151 câu.

    2. Ít diễn từ

Tin Mừng Mác-cô chỉ có ba diễn từ tương đối ngắn: Mc 4,1-34; Mc 9,35-50; Mc 13,1-37. Tin Mừng có nhiều diễn từ nhất là Tin Mừng Gio-an (xem Ga 3, 5, 7–8, 10, 13–17).

    3. Mác-cô không có trình thuật thời niên thiếu

Tin Mừng Mat-thêu và Lu-ca trình bày gia phả và thời niên thiếu của Đức Giê-su. Tin Mừng Gio-an khẳng định nguồn gốc của Đức Giê-su ở Ga 1,1a: “Lúc khởi đầu đã có Lời”. Tin Mừng Mác-cô đi thẳng vào sứ vụ Đức Giê-su khi mở đầu ở Mc 1,1: “Khởi đầu tin mừng của Đức Giê-su Ki-tô [Con Thiên Chúa].”

    4. Ít chỉnh sửa tài liệu biên soạn

Các trình thuật trong Tin Mừng Mác-cô gần với tài liệu nguồn vì bản văn ít bị chỉnh sửa hay được soạn thảo lại.

    5. Tin Mừng kết thúc ở 16,8

Nhiều thủ bản cổ không có trình thuật về những cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh ở Mc 16,9-20. Theo bản văn hiện có, Tin Mừng Mác-cô kết thúc cách lạ lùng ở 16,8: “Vừa ra khỏi mộ, các bà (Ma-ri-a Mác-đa-la, Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và Sa-lô-mê) liền chạy trốn, các bà run lẩy bẩy và hết hồn hết vía. Họ chẳng nói gì với ai, vì họ sợ hãi.” Phần 16,9-20 muộn thời hơn nhưng thuộc Quy Điển Tân Ước. Xem bài viết: “Khởi đầu” và “kết thúc mở” trong Tin Mừng Mác-cô.

II. Đặc điểm văn chương

Có thể nói đến 5 đặc điểm văn chương Tin Mừng Mác-cô: (1) các câu chuyện như thể đặt kề nhau; (2) một số từ ngữ lặp lại nhiều lần; (3) dùng nhiều từ gốc La Tinh; (4) văn chương trung thực, sinh động, giàu cảm xúc; (5) lối hành văn ngạc nhiên, bí ẩn và nghịch lý.

    1. Các câu chuyện đặt kề nhau

Một số câu chuyện đặt kề nhau, không có nối kết trong mạch văn. Chẳng hạn, giáo huấn Đức Giê-su được đặt cạnh nhau trong đoạn văn Mc 9,47-50. Sau giáo huấn về đề tài vấp ngã ở Mc 9,47-48: “47 Nếu mắt của anh làm anh vấp ngã, hãy móc nó đi; tốt cho anh là chột một mắt mà vào Vương Quốc Thiên Chúa hơn là có hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, 48 nơi giòi bọ của chúng không chết và lửa không tắt”, đề tài mới xuất hiện ở 9,49: “Vì tất cả sẽ bị muối bằng lửa.” Câu tiếp theo lại nói về “muối” mà không nói gì về “lửa”: “Muối thì tốt, nhưng nếu muối hết mặn, anh em sẽ lấy gì để làm nó mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong anh em và hãy sống bình an với nhau” (9,50).

    2. Từ ngữ lặp đi lặp lại

Một số từ ngữ xuất hiện thường xuyên. Ví dụ:
- Động từ “erkhomai” (đến, đến với) xuất hiện 78 lần.
- Tính từ “polus” (nhiều) xuất hiện 61 lần.
- Danh từ “okhlos” (đám đông) xuất hiện 38 lần.
- Trạng từ “euthus” (lập tức) xuất hiện 41 lần.
- Động từ “arkhô” (bắt đầu) xuất hiện 27 lần.
- Liên từ “kai” (và) được sử dụng nhiều. Các mệnh đề độc lập nối với nhau bằng liên từ “kai” (và). Từ Mc 2,12 đến 2,19, các câu đều bắt đầu bằng chữ “kai”.
- Động từ “proskaleô” (gọi, gọi đến với, gọi lại, gọi tới) xuất hiện 9 lần.
- Động từ “sunagô” (tụ họp, tụ tập) xuất hiện 5 lần.

    3. Dùng nhiều từ gốc La Tinh

Bản văn Tin Mừng dùng nhiều từ gốc La Tinh. Xem bài viết: “Tiếng La Tinh trong Tin Mừng Mác-cô Hy-lạp”.

    4. Văn chương trung thực, sinh động, giàu cảm xúc

Tin Mừng Mác-cô có lối hành văn đơn sơ mộc mạc, theo kiểu có sao nói vậy, trung thực, không màu mè trang điểm, không ngại nói thẳng nói thật về những mặt trái của nhân vật trong câu chuyện. Nhiều trình thuật giàu cảm xúc như lo buồn, sợ hãi, nóng giận, la mắng, trách móc… Chẳng hạn, Đức Giê-su trách các môn đệ, đám đông, các kinh sư và Pha-ri-sêu. Đối diện với cái chết, Đức Giê-su cũng sợ hãi xao xuyến và xin Cha cất chén đắng. Trên thập giá Người cảm thấy bị Thiên Chúa bỏ rơi.

Có những chi tiết diễn tả thật đến độ làm người đọc mỉm cười như: Thân nhân Đức Giê-su cho rằng Người mất trí (3,21). Đức Giê-su đói và tìm trái vả để ăn, trong lúc không phải mùa vả, rồi thất vọng và nguyền rủa cây vả (11,13-14). Đức Giê-su là Con Thiên Chúa mà cũng không biết về ngày giờ Con Người sẽ ngự đến (13,32). Lạ lùng hơn là người thuật chuyện biết là Đức Giê-su không biết về ngày giờ cùng tận. Với lối hành văn trên, Tin Mừng Mác-cô tạo ra những câu chuyện sinh động, giàu ý nghĩa như trình thuật người mù thành Giê-ri-cô (10,48-50).

    5. Lối hành văn ngạc nhiên, bí ẩn và nghịch lý

Nếu tóm kết Tin Mừng Mác-cô bằng một dấu chấm câu, thì đó là dấu chấm hỏi (xem C. Focant, L’évangile selon Marc, Paris, Cerf, 2004, p. 43). Nói đúng hơn, Ki-tô học Tin Mừng Mác-cô là Ki-tô học ngạc nhiên, vì Tin Mừng làm người đọc ngạc nhiên về mặc khải của Đức Giê-su và về chính Người. Y. Bourquin đề nghị gọi những nghịch lý trong Tin Mừng Mác-cô là “oxymore”  hay “oxymoron”. Tiếng Hy-lạp “oxumôron” ghép hai từ: “oxus” (“aigu” có nghĩa: nhọn, góc nhọn, dữ dội, kịch liệt) và “môros” (“sot”, “fou”, nghĩa là người say bí tỉ, người điên rồ, quá đáng, quá mức). Từ “oxymore” (tiếng Pháp) là tu từ học (rhétorique), dùng hình ảnh tương phản, hay đối lập đặt cạnh nhau làm cho ý nghĩa thêm mạnh mẽ. Chẳng hạn sự dịu dàng mạnh mẽ (une douce violence), sự im lặng hùng hồn (un silence éloquent).

III. Một số đề tài

Có thể ghi nhận năm đề tài lớn trong Tin Mừng Mác-cô: (1) từ “Tin Mừng”; (2) Nước Thiên Chúa, triều đại Thiên Chúa; (3) các tước hiệu về Đức Giê-su: Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, Con Người; (4) cách trình bày nhân vật “các môn đệ”; (5) “bí mật – công khai” về căn tính Đức Giê-su.

    1. “Tin mừng

Tin Mừng Mác-cô mở đầu và kết thúc bằng từ “euaggelion” (tin mừng). Xem bài viết: “Tin mừng” trong “sách Tin Mừng”  Mác-cô.

    2. Nước Thiên Chúa, triều đại Thiên Chúa

Từ Hy-lạp “basileia” được dịch là “vương quốc” (nước) hay “triều đại” tuỳ theo mạch văn. Tin Mừng Mác-cô dùng 20 lần từ “basileia” (Mc 1,15; 3,24a.24b; 4,11.26.30; 6,23; 9,1.47; 10,14.15.23.24.25; 11,10; 12,34; 13,8a.8b; 14,25; 15,43). Trong đó, 14 lần nói về “triều đại” hay “vương quốc” Thiên Chúa (1,15; 4,1.26.30; 9,1.47; 10,14.15.23.24.25; 12,34; 14,25; 15,43); 1 lần nói về triều đại Đa-vít (11,10) và 5 lần nói về vương quốc trần gian (3,24a.24b; 6,23; 13,8a.8b).

Đặc biệt, Tin Mừng Mác-cô chỉ dùng từ “Vương quốc Thiên Chúa” (hê basileia tou theou) hay “Nước Thiên Chúa” chứ không dùng từ “Nước Trời” (hê basileia tôn ouranôn, dịch sát: “Vương quốc của các tầng trời”) như thường dùng trong Tin Mừng Mát-thêu (Mt 3,2; 4,17; 5,3.10...).

    3. Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, Con Người

Hai tước hiệu quan trọng của Đức Giê-su là (a) “Đấng Ki-tô” (Khristos) và (b) “Con” (huios).

        a. Đức Giê-su là Đấng Ki-tô (Khristos)

Danh hiệu “Ki-tô” (Khristos) xuất hiện 7 lần trong Tin Mừng Mác-cô (Mc 1,1; 8,29; 9,41; 12,35; 13,21; 14,61; 15,32). Trong đó, có 3 lần quan trọng: (1) Mc 8,29 (Phê-rô tuyên xưng); (2) 12,35 (Đấng Ki-tô là con Đa-vít và cao trọng hơn Đa-vít); (3) 14,61 (Đấng Ki-tô, Con Đấng Đáng Chúc Tụng). Đấng Ki-tô (tiếng Híp-ri là Đấng Mê-si-a) có nghĩa là “Đấng được xức dầu”.
Đức Giê-su thi hành ba sứ vụ của Đấng Mê-si-a: Ngôn sứ, quân vương và tư tế. – Là Ngôn sứ, Đức Giê-su rao giảng Nước Thiên Chúa (1,14-15) khắp miền Ga-li-lê (1,39) và mặc khải mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (4,1-34). Người nói về mình như một ngôn sứ bị rẻ rúng tại quê hương (6,4). Một số thính giả coi Người là một ngôn sứ (8,28). – Là quân vương, Đức Giê-su bày tỏ quyền năng cứu độ của Người. Người có quyền trên ma quỷ và thần ô uế (1,25-26.39; 3,11.15.22b; 5,1-13; 6,13; 9,17-27); quyền trên thiên nhiên (4,37-41); trên bệnh tật (5,25-34); và trên cả sự chết (5,22-23.35-43). Với quyền năng như thế, Đức Giê-su chăm sóc các con chiên bệnh tật, chữa lành những kẻ yếu đau tật nguyền. Với tư cách quân vương, Đức Giê-su nuôi dưỡng dân qua hai phép lạ bánh hoá nhiều (6,34-44; 8,1-10). – Là tư tế, Người tuyên bố: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống của mình làm giá chuộc muôn người” (10,45). Người vừa là tư tế (người hiến dâng), vừa là lễ vật (mạng sống của Người). Ý tưởng này được trình bày qua việc Đức Giê-su thiết lập bí tích Thánh Thể (14,22-24).

        b. Đức Giê-su là Con (huios)

Danh từ “con” (huios) xuất hiện 34 lần trong Tin Mừng Mác-cô (Mc 1,1.11; 2,10.19.28; 3,11.17.28; 5,7; 6,3; 8,31.38; 9,7.9.12.17.31; 10,33.35.45.46.47; 12,6a.6b.35.37; 13,26.32; 14,21a.21b.41.61.62; 15,39). Trong đó, 28 lần từ “con” (huios) chỉ Đức Giê-su trong các kiểu nói: “Con Người” 14 lần (2,10.28; 8,31.38; 9,9.12.31; 10,33.45; 13,26; 14,21a.21b; 14,41.62; “Con Thiên Chúa” 4 lần (1,1;  3,11; 5,7; 15,39). “Con yêu dấu” 2 lần (1,11; 9,7; “Con” 1 lần (13,32); “Con Đấng Đáng Chúc Tụng” 1 lần (14,61); “Con Đa-vít” 3 lần (10,47; 12,35.37). “Con bà Ma-ri-a” 1 lần (6,3). Từ “con” (huios) xuất hiện 2 lần trong dụ ngôn vườn nho nói về Đức Giê-su: “Con yêu dấu” (12,6a); “chúng nể con ta” (12,6b). Trong 28 lần từ “con” nêu trên, có hai tước hiệu quan trọng: “Con Thiên Chúa” và “Con Người”.

1) Tước hiệu “Con Thiên Chúa” còn được diễn tả qua kiểu nói: “Con yêu dấu”, “Con” và “Con Đấng Đáng Chúc Tụng”.

2) Tước hiệu “Con Người” xuất hiện 14 lần và chia thành ba loại: (a) 3 lần từ “Con Người” ở 8,38; 13,26; 14,62 gợi đến sự quang lâm của Đức Giê-su và có liên hệ với Đn 7,13. (b) 2 lần từ “Con Người” ở 2,10.28 chỉ hoạt động công khai của Đức Giê-su có liên hệ với Đn 7,13. (c) 9 lần từ “Con Người” gợi đến biến cố Thương Khó – Phục Sinh ở 8,31; 9,9.12.31; 10,33.45; 14,21a.21b.41. Trong đó, 3 lần ở 8,31; 9,31; 10,33 tiên báo Thương Khó – Phục Sinh. Từ “Con Người” trong loại thứ ba (c) gợi đến bài ca thứ IV về người tôi tớ đau khổ (Is 52,13–53,11), nhất là Is 53,2b-12. Đấng Mê-si-a đau khổ là điều khó chấp nhận đối với người Do Thái, vì họ quan niệm Đấng Mê-si-a sẽ chiến thắng kẻ thù của Ít-ra-en. Theo một số tác giả, Mác-cô dùng tước hiệu Con Người thay thế cho tước hiệu Mê-si-a để nói về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su.

Trong 34 lần từ “con” (huios) trong Mác-cô, 6 lần không nói về Đức Giê-su: “Con thiên lôi” (3,17); “con cái loài người” (3,28); “con ông Dê-bê-đê” (10,35; “con ông Ti-mê là Ba-ti-mê” (10,46); “con trai tôi bị thần câm ám” (9,17); “khách dự tiệc” (2,19).

    4. Nhân vật “các môn đệ”

Đức Giê-su kêu gọi các môn đệ từ những chương đầu tiên sách Tin Mừng (ch. 1–2): Si-môn và An-rê (1,16-18); Gia-cô-bê và Gio-an (1,19-20); Lê-vi (2,14). Sau đó Người thiết lập Nhóm Mười Hai (3,13-19) “để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (3,14). Theo mạch văn Mc 4,11 đánh dấu bước tiến triển mới. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở Mc 4,11: “Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được ban cho anh em; nhưng những người kia là những kẻ ở ngoài, thì mọi sự xảy đến trong dụ ngôn.” 

Tuy nhiên, càng về cuối Tin Mừng các môn đệ càng không hiểu Đức Giê-su. Có thể nói, các môn đệ là những người ở trong, nhưng thực chất là ở ngoài vì không hiểu Đức Giê-su. Sự không hiểu này là cơ may để người đọc bản văn, là người ở ngoài, có thể hiểu Đức Giê-su và trở thành người ở trong. Xem bài viết: “Anh em ngu muội như thế sao?” (Mc 7,18) Lời này nói gì với độc giả?

    5. “Bí mật – công khai” về căn tính Đức Giê-su

Trong Tin Mừng Mác-cô, các đoạn văn nói đến “bí mật” về Đấng Mê-si-a là Mc 1,25.44; 3,12; 5,43; 7,36; 8,30; 9,9. Đức Giê-su cấm không cho một số nhân vật trong trình thuật tiết lộ về tư cách Mê-si-a của Người để tránh hiểu lầm. Người cần thời gian để làm rõ vai trò của Đấng Mê-si-a.

Tuy nhiên, Tin Mừng lại trình bày cách nghịch lý: Bí mật nhưng ai cũng biết. Lối hành văn “Bí mật – công khai” vừa đề cao quyền năng của Đức Giê-su, vừa cho độc giả biết rằng: Đừng đánh giá Đức Giê-su bề ngoài qua những phép lạ. Biến cố Thương Khó – Phục Sinh mới là nơi biểu lộ rõ ràng tư cách Mê-si-a của Đức Giê-su. Đối với cộng đoàn Mác-cô cuối thế kỷ I và đối với độc giả qua mọi thời đại, Đức Giê-su đã Phục Sinh rồi nên vấn đề đặt ra là độc giả đã thực sự nhận biết Đức Giê-su chưa? Xem bài viết: “Bí mật công khai”. Cấm không được nói mà ai cũng biết!

Kết luận

Phần trên trình bày một số đặc điểm và đề tài chính trong Tin Mừng Mác-cô. So với các Tin Mừng khác, Mác-cô là (1) Tin Mừng ngắn nhất ; (2) ít các triển khai tư tưởng bằng diễn từ; (3) không có trình thuật thời niên thiếu của Đức Giê-su; (4) Bản văn ít chỉnh sửa so với tài liệu gốc; (5) kết thúc cách lạ lùng. Dựa trên những đặc điểm này có thể xem Tin Mừng Mác-cô biên soạn trước Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca. Xem phần “Nguồn tài liệu” trong bài viết: “Tác giả, độc giả, nơi biên soạn, niên biểu và tài liệu biên soạn Tin Mừng Mác-cô)”.

Về đặc điểm văn chương, Tin Mừng Mác-cô có kiểu hành văn đặc thù: (1) các trình thuật như thể đặt kề nhau; (2) nhiều từ ngữ lặp đi lặp lại; (3) bản văn dùng nhiều từ gốc La Tinh; (4) văn chương trung thực, sinh động, giàu cảm xúc; (5) lối hành văn ngạc nhiên, bí ẩn và nghịch lý.

Trước đây người ta ít chú ý đến các kiểu hành văn trong Tin Mừng Mác-cô, nhưng các thập niên gần đây, nhiều tác giả đã quan tâm đến kỹ thuật hành văn, chú ý các chi tiết lạ lùng, bí ẩn và nghịch lý. Có thể nói, nếu độc giả không sững sờ và kinh ngạc về mọi thứ trong Tin Mừng Mác-cô: kinh ngạc về cách hành văn, sững sờ về giáo huấn của Đức Giê-su, lạ lùng trong cách trình bày căn tính của Người với những chi tiết nghịch lý trong cách kể chuyện, thì độc giả chưa thưởng thức được nét hay, nét đẹp, độc đáo và thú vị của thần học Tin Mừng Mác-cô. Xem bài viết: “Mác-cô, Tin Mừng của sự ngạc nhiên”./.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét