Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 27 tháng 02 năm 2020.
Nội dung
Dẫn nhập
1. Đức Giê-su cấm thần ô uế và quỷ nói về
Người
2. Cấm người chứng
kiến nói về phép lạ
3. Cấm các môn đệ nói về
điều đã nghe, đã thấy
Kết
luận
Dẫn
nhập
Người đọc ngạc
nhiên khi thấy Tin Mừng Mác-cô trình bày điều tương phản và nghịch lý: “bí mật
công khai”. Làm thế nào “bí mật” lại có thể đi với đối lập “công khai”? Điều lạ
lùng là Đức Giê-su nhiều lần cấm các nhân vật trong Tin Mừng nói về Người về phép
lạ Người làm, nhưng thường không được người ta tuân giữ. Một đàng thì “càng cấm,
càng nói” (Mc 7,36); đàng khác điều mà Đức Giê-su cấm nói thì mọi người đều
biết. Có thể đây là lối hành văn độc đáo của Tin Mừng Mác-cô: trình bày cách nghịch
lý để chuyển tải những mặc khải thần học quan trọng.
Trong Tin
Mừng Mác-cô, Đức Giê-su cấm thính giả nói ở một số đoạn văn: Mc 1,25.44; 3,12;
5,43; 7,36; 8,30; 9,9. Người ta thường nói Tin Mừng nói về bí mật tư cách Mê-si-a
của Đức Giê-su. Người cấm không cho tiết lộ tư cách Mê-si-a để tránh hiểu lầm. Tuy
nhiên nếu chỉ hiểu như thế thì chưa lột tả hết ý nghĩa thần học của tương phản
“bí mật công khai”. Khi bản văn trình bày cách nghịch lý: bí mật nhưng ai cũng
biết, càng cấm thì càng loan truyền về Đức Giê-su, có thể muốn nhắn gửi độc giả
điều gì đó.
Để tìm hiểu
đề tài này cần trả lời các câu hỏi: Đức Giê-su cấm những đối tượng nào nói về
Người? Cấm trong hoàn cảnh nào và cấm điều gì? Lệnh cấm có được thực hiện hay
không? Cụ thể, Đức Giê-su cấm ba nhóm nhân vật: (1) cấm thần ô uế và quỷ nói về
Người; (2) cấm người được chữa lành và những người chứng kiến nói về phép lạ;
(3) cấm các môn đệ nói về điều đã nghe, đã thấy.
1. Đức Giê-su cấm thần ô uế và quỷ nói về
Người
Ngay từ lần
rao giảng đầu tiên trong hội đường, Đức Giê-su trục xuất thần ô uế và cấm thần
ô uế nói về Người. Câu chuyện được thuật lại ở Mc 1,21-28: “21 Đức Giê-su và
các môn đệ đi vào Ca-phác-na-um, và tức khắc, đi vào trong hội đường ngày
sa-bát, Người giảng dạy. 22 Họ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người
giảng dạy họ như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư. 23 Lập tức,
trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, người ấy la lên 24 nói
rằng: ‘Nào có gì giữa chúng tôi và Ông, Ông Giê-su Na-da-rét? Ông đến để tiêu
diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa.’ 25 Nhưng
Đức Giê-su quát mắng nó và nói: ‘Hãy câm đi và hãy xuất khỏi người này.’ 26
Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét một tiếng lớn và xuất khỏi người ấy. 27 Mọi người
đều kinh ngạc đến nỗi bàn tán với nhau rằng: ‘Điều này là gì? Giáo huấn mới mẻ,
kèm theo uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng tuân lệnh Ông
ta.’”
Tại sao Đức
Giê-su ra lệnh cho thần ô uế “câm đi” (1,25), không được nói, trong khi thần ô
uế nói đúng về Người: “Tôi biết Ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa”?
(1,24) Tại sao Đức Giê-su ra lệnh “câm đi” khi thần ô uế đã nói rồi? Nghĩa là
cử toạ trong trình thuật và độc giả đều biết rõ thần ô uế nói gì. Đức Giê-su
cấm thần ô uế nói điều mà ai cũng đã nghe, đã biết. Cấm như thế có ý nghĩa gì?
Đức Giê-su
ra lệnh cho thần ô uế câm đi, vì tự bản chất, thần ô uế đối lập với Đấng Thánh.
Thần ô uế không có tư cách để nói sự thật về Đức Giê-su. “Thần ô uế” (to
pneuma to akatharton) ở đây thuộc về “quỷ” (ho diabolos). Trong
trình thuật song song với Tin Mừng Lu-ca (Mc 1,23 // Lc 4,33), Lu-ca ghép
chung “thần ô uế” (to pneuma to akatharton) với “quỷ” (to
daimonion) khi viết ở Lc 4,33: “Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô
uế nhập (pneuma daimoniou akathartou).” Tin Mừng Gio-an định nghĩa quỷ ở
Ga 8,44: “Quỷ không đứng trong sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó
nói, nó nói theo bản tính của nó là sự gian dối, vì nó là kẻ nói dối, và là cha
của sự gian dối.” Vì quỷ không có sự thật nơi mình, nên thần ô uế không có khả
năng nói sự thật, nhất là sự thật về Đức Giê-su.
Hơn nữa,
thần ô uế tự cho mình “biết” khi nói với Đức Giê-su: “Tôi biết Ông là ai” (Mc
1,24b). Thực ra, chỉ có người của Thiên Chúa, người thuộc về Thiên Chúa mới
thực sự “biết” Đức Giê-su. Thần ô uế nhập vào con người, làm cho con người bị
tha hoá và xa rời Thiên Chúa, nó không thuộc về Thiên Chúa và không thực sự
biết Đức Giê-su nên Người ra lệnh “hãy câm đi”. Thần ô uế không được nói, vì nó
không thể nói sự thật. Đúng hơn, nó không có sự thật để nói. Sâu xa hơn, thần ô
uế không có “lời” để nói, không có phương tiện để nói, nên nó phải nhập vào con
người và mượn tiếng con người để nói.
Đặc biệt ở 1,21-28,
thần ô uế phải câm, vì nó không thể là nhân vật đầu tiên nói về Đức Giê-su
trong Tin Mừng Mác-cô. Đối với độc giả, lời của thần ô uế (1,24) là thông tin
quan trọng và đúng, nhưng tư cách của người nói lại không xứng đáng. Qua lời thần
ô uế, người thuật chuyện cung cấp cho độc giả thông tin chính xác về Đức
Giê-su, nhưng sau đó lại phủ nhận tư cách của kẻ cung cấp thông tin. Qua lối
hành văn này, người thuật chuyện muốn độc giả nhận ra rằng có thông tin đúng vẫn
chưa đủ, điều quan trọng là tuyên xưng điều đó với lòng tin.
Để con người
có khả năng nói sự thật, Đức Giê-su chọn cách giải thoát con người khỏi thần ô
uế, và mặc khải cho con người biết Người là ai. Cho dù đối với con người, tiến
trình học biết Đức Giê-su không đơn giản. Sự không hiểu của các môn đệ trong
suốt Tin Mừng cho thấy rõ điều đó. Thật ra, loài người không biết rõ Đức Giê-su
như thần ô uế, nhưng nếu con người đón nhận và tin vào Người thì có khả năng
biết đúng và nói đúng về Người. Con người cần không ngừng học hỏi và lắng nghe để
dần dần biết Đức Giê-su là ai, từ đó “sám hối và tin vào Tin Mừng” (1,15c). Nói
cách khác, chỉ người tin mới thực sự biết Đức Giê-su và nói đúng về Người.
Cách thức cho quỷ nói rồi lại cấm như trên được lặp lại trong lời tóm kết ở
Mc 3,11-12: “11 Còn các thần ô uế, hễ thấy Người thì sấp mình dưới chân của
Người và kêu lên rằng: ‘Ông là Con Thiên Chúa.’ 12 Và Người cấm ngặt chúng để
chúng không làm Người bị lộ.” Nhiều lần Đức Giê-su cấm thần ô uế nói, nhưng nội
dung điều cấm thì ai cũng biết: “Người là Con Thiên Chúa” (3,11). Lối hành văn
độc đáo này vừa cho độc giả biết Đức Giê-su là ai, vừa mời gọi độc giả đón nhận
và tin vào Đức Giê-su để có tư cách nói về Người.
2. Cấm người chứng
kiến nói về phép lạ
Một số trường hợp, Đức Giê-su cấm người được chữa
lành và những người chứng kiến nói về phép lạ. Tuy nhiên, điều cấm này thường không
“thành công”, vì càng cấm, họ càng loan truyền (1,44-45; 7,36). Sau khi chữa
người phong hủi, Đức Giê-su nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay và nói với anh ở
1,44: “Coi chừng, đừng nói gì với ai, nhưng anh hãy đi trình diện với tư tế, và vì
anh đã được sạch, anh hãy tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền, để làm chứng
trước mặt họ.” Người thuật chuyện kể tiếp ở 1,45: “Nhưng vừa đi khỏi, anh ta đã
bắt đầu rao giảng khắp nơi và loan truyền lời ấy, đến nỗi Người không thể công
khai đi vào thành, Người đành ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ
khắp nơi đến với Người.”
Câu chuyện chữa người điếc và ngọng cũng tương tự
như trường hợp trên. Người thuật chuyện kể ở 7,34-36: “34 Đức Giê-su
ngước mắt lên trời, thở dài và nói với anh ta: ‘Ép-pha-tha’, nghĩa là ‘Hãy mở
ra!’ 35 Và ngay Lập tức tai của anh ta mở ra, sự trói buộc lưỡi của anh ta được
tháo ra, và anh ta nói được rõ ràng. 36 Người căn dặn họ là không được nói với
ai. Nhưng Người càng căn dặn họ, họ càng loan truyền hơn nữa.” Đại từ “họ”
(ngôi thứ ba số nhiều) cho thấy Đức Giê-su căn dặn người được chữa lành và cả những
người có mặt ở đó. Tất cả họ đã làm ngược lại lời Đức Giê-su dặn.
Một vài trường hợp khác, Đức Giê-su cấm những người
chứng kiến phép lạ không được nói ra, nhưng bản văn không cho biết người ta có tuân giữ hay không (5,43; 8,26).
Người thuật chuyện kể chuyện Đức Giê-su cứu sống con gái ông trưởng hội đường ở
5,41-43: “41 Người cầm lấy tay đứa bé và nói với nó: ‘Ta-li-tha kum’, dịch ra
là ‘Này cô bé, Thầy bảo con: Hãy trỗi dậy!’ 42 Và lập tức cô bé đứng dậy và đi
lại, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta sửng sốt kinh ngạc vô cùng.
43 Người căn dặn họ nhiều lần là không được để một ai biết việc ấy, và Người
nói cho con bé ăn.” Trong câu chuyện chữa
anh mù (8,24-26), Đức Giê-su chỉ dặn anh ta: “Anh đừng có vào làng”
(8,26).
Tóm lại, các trình thuật trên là kiểu hành văn tương
phản giữa “giữ kín” và “loan truyền”. Thực vậy, khi Người bảo đừng nói với ai
về phép lạ Người làm thì họ lại “rao giảng khắp nơi”
(1,45). Người thuật chuyện nhấn mạnh điều này qua kiểu nói: “Người càng
căn dặn họ, họ càng loan truyền hơn nữa”
(7,36). Lối hành văn này nói lên nhiều ý nghĩa. Qua sự “không vâng lời”, người
được chữa lành và những người chứng kiến phép lạ đã đề cao Đức Giê-su vì họ
nhận ra việc Đức Giê-su ngoài sức tưởng tượng, không thể im lặng. Niềm vui quá
lớn đến nỗi họ không thể giữ kín. Cách duy nhất để bày tỏ điều mắt chưa hề thấy
tai chưa hề nghe là “càng cấm càng loan truyền”. Họ làm thế để ca tụng Thiên
Chúa, để mọi người biết Đức Giê-su là ai và Người đã làm gì. Họ mời gọi mọi
người đến với Đức Giê-su để đón nhận niềm vui, sự chữa lành và sự sống đích
thực nơi Người.
Kiểu hành văn lạ lùng như trên muốn nói với độc giả
rằng khi tin vào Đức Giê-su, khi đón nhận sự sống từ nơi Người, khi được Người
yêu thương và chữa lành bệnh tật trong tâm hồn, khi được cứu khỏi cội rễ bệnh
tật thân xác là sự chết, thì không thể nào im lặng được. Liệu độc giả có cảm
nhận được niềm vui và hạnh phúc lớn lao như các nhân vật trong Tin Mừng không?
Liệu độc giả có dám làm điều họ đã làm: “càng cấm càng nói” để ca tụng Thiên Chúa
và chia sẻ niềm vui lớn lao với mọi người không? Vậy, kiểu hành văn trong Tin
Mừng là “cấm” không phải để “giữ kín”, không phải để “im lặng” mà là để làm cho
điều “bí mật” trở thành “công khai”. Bản văn đề cao việc “rao giảng” cho mọi
người biết điều Đức Giê-su đã làm. Lối hành văn nghịch lý này tạo sức mạnh cho
bản văn và mang lại ý nghĩa cho người đọc.
3. Cấm các môn đệ nói về điều đã nghe, đã thấy
Ở 8,30; 9,9, Đức Giê-su cấm các môn đệ nói về điều các ông đã nghe, đã thấy.
Lần thứ nhất ở Mc 8,29-30: “29 Đức Giê-su hỏi các môn đệ: ‘Còn
anh em, anh em bảo Thầy là ai?’ Phê-rô lên tiếng nói với Người: ‘Thầy là Đấng
Ki-tô.’ 30 Đức Giê-su căn dặn các ông để các ông không nói với ai về Người.”
Tiếp theo là trình thuật biến hình (9,2-8), sau khi ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê
và Gio-an chứng kiến Đức Giê-su biến đổi hình dạng ở trên núi cao, người thuật
chuyện kể: “9 Trong khi họ xuống núi, Người căn dặn họ để họ đừng kể lại cho ai
những điều họ thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. 10 Các ông giữ
lời dặn, tuy họ tranh luận với nhau: ‘Từ cõi chết sống lại’ nghĩa
là gì” (Mc 9,9-10).
Theo bối cảnh mạch văn, Đức Giê-su căn dặn các môn đệ đừng nói về Người,
bởi lẽ chính các môn đệ cũng chưa biết rõ Đức Giê-su là ai. Chỉ sau biến cố
Thương Khó – Phục Sinh và lãnh nhận Thánh Thần, các môn đệ mới biết Đức Giê-su
và biết tư cách Mê-si-a của Người. Đây là lúc các ông rao giảng cho mọi
người biết điều trước đây Đức Giê-su dặn đừng nói ra. Như thế, các môn đệ không
nói, không phải là giữ “bí mật” mà để đến lúc thuận tiện thì “công khai” cho
mọi người biết. Mục đích của “bí mật” là “công khai”, công bố, rao giảng về Đức
Giê-su.
Hơn nữa, độc giả qua mọi thời đại, khi đọc bản văn thì đã biết rõ lời Phê-rô
nói về Đức Giê-su: ‘Thầy là Đấng Ki-tô’ (8,29b) và biết rõ mọi chi tiết trong
biến cố Đức Giê-su biến đổi hình dạng trên núi cao (9,2-8). Độc giả cũng “có mặt” với ba môn đệ trên núi, được
“chiêm ngưỡng” những gì ba môn đệ thấy và “nghe” tiếng phát ra từ trời. Độc giả
nghe cả lời Đức Giê-su dặn “đừng kể lại cho ai những điều đã thấy, trước
khi Con Người từ cõi chết sống lại” (9,9). Vậy không có gì là bí mật, dấu kín đối
với độc giả. Điều phải giữ kín đối với các nhân vật trong trình thuật là điều “công
khai” đối với độc giả mọi nơi, mọi thời.
Kết
luận
Qua bản văn, người thuật chuyện để độc giả tham dự
vào những gì riêng tư nhất trong câu chuyện về Đức Giê-su. Chẳng hạn, chuyện không
nhân vật nào trong Tin Mừng biết, chỉ có người thuật chuyện và độc giả biết, đó
là lúc Đức Giê-su cầu nguyện một mình trong vườn Ghết-sê-ma-ni (14,36).
Khi ấy ba môn đệ thân tín đang ngủ (14,37). Trong
mối tương quan “tác giả – độc giả”, không có gì “bí mật” vì độc giả biết rõ nội
dung điều “bí mật” trong bản văn. Nói theo kiểu hành văn nghịch lý của Tin Mừng
Mác-cô, đó là “bí mật công khai”. Đề tài này làm lộ ra căn tính Đức Giê-su, đồng
thời giúp độc giả biết Người là ai và đến trần gian để làm gì. Có thể nghi nhận
ba điều từ những phân tích trên:
(1) Thần ô uế và quỷ nói đúng về Đức Giê-su nhưng bị cấm nói.
Điều này cho độc giả biết Đức Giê-su là ai (“Người là Con Thiên Chúa”). Nhưng
để nói điều đó, cần đón nhận và tin vào Đức Giê-su. Quỷ biết đúng về Đức Giê-su
nhưng không có tư cách để nói về Người vì quỷ chống lại Thiên Chúa và làm con
người bị tha hoá. Chỉ người tin mới có đủ tư cách nói sự thật về Đức Giê-su.
(2) Niềm vui và hạnh phúc của người được chữa lành và những người chứng kiến
phép lạ là quá lớn, đến nỗi phải diễn tả bằng kiểu nói tương phản: “càng cấm, càng
loan truyền” về Đức Giê-su và về những gì Người đã làm. Trình thuật mời gọi độc
giả cảm nhận và sống niềm vui ấy, hãy làm theo cách thức của mình để tôn vinh
Thiên Chúa, để cho mọi người biết Đức Giê-su là ai và Người đã làm gì.
(3) Đức Giê-su căn dặn các môn đệ không được nói với ai là vì lúc đó các ông
chưa thực sự biết Người là ai. Đây cũng là lời cảnh báo để độc giả đừng vội đánh
giá Đức Giê-su theo bề ngoài, hay chỉ dựa vào phép lạ Người làm. Cần đọc Tin
Mừng đến biến cố Thương Khó – Phục Sinh, biến cố nền tảng này làm rõ sự thật về
tư cách Mê-si-a của Người. Từ đó, điều “giữ kín” sẽ được rao giảng “công khai”.
Độc giả được mời gọi học hỏi để biết
đúng, hiểu đúng, nói đúng về Đức Giê-su và lên đường rao giảng như các môn đệ
đã làm.
Có thể nói, không có “bí mật” trong Tin Mừng Mác-cô. Tin Mừng không muốn
giữ bí mật điều gì cả, ngược lại, điều Tin Mừng nhắm tới là “công khai”. Nhưng
ai là người có đủ tư cách để “công khai” và “công khai” điều gì? Qua đề tài nghịch
lý: “bí mật công khai”, độc giả nhận ra ba điều kiện để nói về Đức
Giê-su: (1) tư cách người nói (tin và đón nhận Đức Giê-su); (2) nhận ra
niềm vui và hạnh phúc sâu xa để không thể im lặng về những gì Đức Giê-su đã nói
và đã làm; (3) đón nhận
và sống biến cố Thương Khó và Phục Sinh như là cách duy nhất để thực sự biết
Đức Giê-su là ai và gắn kết với Người.
“Bí mật
công khai” là kiểu hành văn Tin Mừng Mác-cô, còn được gọi là
Tin Mừng của sự “ngạc nhiên”, “lạ lùng” và “nghịch lý”. Lối hành văn này chuyển
tải đến độc giả những nét thần học đặc sắc, thú vị và độc đáo./.
Thật lạ cha ạ, con đã nhận được rất nhiều ơn của Chúa, đã cảm nghiệm được niềm vui có Chúa mà sao con chưa thể "...hãy sống niềm vui ấy, hãy làm theo cách thức của mình để tôn vinh Thiên Chúa, loan báo cho mọi người biết Đức Giê-su là ai và nói cho mọi người biết những gì Đức Giê-su đã làm cho mình" được.
Trả lờiXóaPhải làm thế nào bây giờ cha nhỉ ?
Có trăm ngàn cách để diễn tả niềm vui và bình an của Đức Giê-su đã ban tặng. Thể hiện ra như thế nào còn tuỳ cá tính và cách sống của mỗi người. Thực tế cho thấy, không ai hoàn toàn giống nhau về vóc dáng cũng như về tính tình và sở thích. Vì thế, điều quan trọng là đón nhận niềm vui và bình an của Đức Giê-su và làm cho niềm vui và bình an ấy trở thành niềm vui và bình an của mình. Từ đó, hãy sống và làm những gì mình thích. Điều mình thích là điều mà Chúa đã đặt để nơi thâm sâu trong tâm hồn. Chẳng hạn, sưu tầm và chia sẻ lời Chúa cho mọi người đã là chia sẻ niềm vui gặp gỡ Đức Giê-su cho mọi người rồi vậy.
Trả lờiXóaCám ơn Cha! "Bí mật công khai" đúng là cách hành văn rất độc đáo và thú vị của Tin mừng Marcô, trước đây con có biết qua cách hành văn này nhưng khi đọc bài chia sẻ Cha phân tích lại càng thấy thú vị hơn!!!
Trả lờiXóaCon người ta một khi đã có niềm vui rồi thì khó có thể giữ kín được, họ luôn luôm tìm mọi cách để bộc lộ sự vui mừng đó ra, như ba điều kiện ở phần kết luận của bài chia sẻ đã làm nổi bật lên sự sung sướng, niềm hạnh phúc của người đã gặp, đã biết,và đã tin vào Đức Kitô, nên họ không còn cách nào khác phải ra đi loan giảng Tin Mừng của Đức Kitô cho mọi người được biết. Đúng là sự phong phú của Tin Mừng Thánh Macco.
Trả lờiXóaCám ơn bài viết của rất nhiều.
Trả lờiXóaCon vào nhóm những người được chữa lành.
Con cũng thế đó:
Người càng cấm, con lại càng thích nói,
Bởi làm sao nín lặng trước ơn trời!
Như Nguồn thiêng phước lộc tỏa trong đời.
Xin tán tụng vinh danh Lời Hằng Sống.
tình yêu toàn năng của chính Chúa Cha đã ban tặng Người Con là ĐGS cho chúng con. khi con cầu nguyện với Lời của Chúa con nhận ra một điều Cha rất mong muốn con phải cảm nghiệm cho kỳ được tình yêu mà Cha đã yêu thương con, tình yêu của Cha được thể hiện ngay cả trong những biến cố đau thương nhất của đời con. bởi vì tất cả những điều đó là đều có mục đích huấn luyện cho con được thấu hiểu, cảm sâu hơn về tình yêu mà Cha đã dành cho con người.
Trả lờiXóa