Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập
nhật, ngày 21 tháng 02 năm 2020.
Nội
dung
Dẫn nhập
1. Phân biệt thực tế
lịch sử với tình tiết bản văn
2. “Nhân vật lịch sử” và “nhân
vật trong bản văn”
3. “Tác giả, độc giả thực
sự” và “tác giả, độc giả tiềm ẩn”
Kết Luận
Dẫn nhập
Phân tích thuật
chuyện và cấu trúc sử dụng lối tiếp cận đồng đại (approche synchronique), vì thế phương pháp phân tích này lấy bản
văn làm trọng tâm và xem bản văn như một tổng thể có ý nghĩa. Khi áp dụng phân
tích thuật chuyện và cấu trúc vào Tin Mừng Gio-an, tác giả G.S. Sloyan viết:
“Chúng ta có thể thoáng thấy lịch sử của cộng đoàn Gio-an qua cửa sổ Tin Mừng,
nhưng mục đích của tác giả sách Tin Mừng trước tiên không phải là lịch sử mà là
một câu chuyện tường thuật” (g.s. Sloyan,
What are They Saying about John?, New York, Mahwah, Paulist Press, 1991,
p. 5). P. Létourneau khẳng định: “Một khi đã được viết ra, bản văn tự nó tồn
tại và trở thành ‘nơi có ý nghĩa’ một cách độc lập” (P. Létourneau, Jésus,
Fils de l’homme et Fils de Dieu, Jean 2,23–3,36 et la double christologie
johannique, (Rech.NS 27), Montréal – Paris, Bellarmin – Le Cerf, 1993, p.
14-15). Phương pháp thuật chuyện và cấu trúc lấy bản văn làm dữ liệu để phân
tích và xem bản văn như một bức tranh để chiêm ngắm hay một toà nhà để thăm
viếng. Phân tích thuật chuyện và cấu trúc giúp độc giả quan sát chính bức tranh
hay toà nhà văn chương để tìm ra ý nghĩa của các chi tiết trong bức tranh hay
trong toà nhà ấy. Xem mục “Tiếp cận lịch đại và tiếp cận đồng đại” trong Phân tích thuật chuyện và cấu trúc,
tr. 14-16.
Để áp dụng hiệu
quả phương pháp phân tích thuật chuyện và cấu trúc, cần phân biệt giữa “sự thật
bản văn” và “sự thật lịch sử”. Sự thật lịch sử phức tạp và huyền nhiệm. Sự thật
này vượt khỏi tầm tay của độc giả, bởi vì độc giả chỉ có trong tay bản văn. Cho
dù bản văn phản ánh một số chi tiết lịch sử, nhưng bản văn và lịch sử là hai
thực tại khác nhau, không trùng khớp với nhau. Mục đích của phân tích thuật
chuyện và cấu trúc là đi tìm ý nghĩa của câu chuyện được kể lại trong bản văn
chứ không đi tìm lịch sử. Tìm hiểu lịch sử là công việc của nhà sử học.
Phân biệt “sự
thật lịch sử” và “sự thật bản văn” giúp độc giả không dẫm chân lên lãnh vực sử
học và chú tâm vào việc tìm hiểu ý nghĩa của bản văn. Phần sau sẽ trình bày một
số đóng góp của lối phân tích thuật chuyện và cấu trúc vào việc tìm hiểu bản
văn Kinh Thánh qua ba mục: (1) Phân biệt thực tế lịch sử với tình tiết trong
bản văn; (2) Nhân vật lịch sử và nhân vật trong bản văn; (3) “Tác giả, độc giả
thực sự” và “tác giả, độc giả tiềm ẩn”.
1. Phân biệt thực tế lịch sử với tình tiết bản văn
Phân biệt thực tế
lịch sử với những gì được thuật lại trong bản văn là điều quan trọng. Đây là
hai thực tại có liên hệ với nhau, nhưng chúng hoàn toàn khác nhau. Sự phân biệt
này giúp độc giả tránh được những bối rối, khi thấy cùng là một sự kiện, nhưng
các sách Tin Mừng thuật lại với những chi tiết khác nhau, thậm chí mâu thuẫn và
không thể dung hoà.
Chẳng hạn, các
sách Tin Mừng đều nói về phép lạ hay dấu lạ Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều. Trình
thuật “Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều” được thuật lại trong các sách Tin Mừng (Mc
6,30-44; 8,1-19; Mt 14,13-21; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13) với nhiều chi tiết khác
nhau. Theo Mc 6,30-44, sau khi Đức Giê-su làm phép lạ bánh hoá nhiều, Người
trao cho các môn đệ và các môn đệ phân phát cho dân chúng ăn. Ý tưởng này
được nhấn mạnh, vì trước khi làm phép lạ, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mc 6,37). Người
thuật chuyện cho độc giả biết là Đức Giê-su thực hiện lời nói trên (Mc 6,41)
khi kể rằng: “Người (Đức Giê-su) cầm lấy năm cái bánh và hai con cá,
ngước mắt lên trời chúc tụng bẻ bánh ra và trao cho môn đệ [của Người] để các
ông dọn ra cho họ” (xem Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt).
Khác với Mác-cô, theo Tin Mừng Gio-an thì chính Đức Giê-su phân phát cho đám
đông ăn. Ga 6,11 cho biết: “Đức Giê-su cầm lấy bánh, tạ ơn, trao cho những
người ngồi đó. Cá, Người cũng làm như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ ý” (xem Bản văn Gio-an, Tin
Mừng và Ba thư, Hy Lạp – Việt).
Nếu không phân
biệt thực tế lịch sử với bản văn, độc giả sẽ bối rối vì không biết trình thuật Tin
Mừng Mác-cô hay Tin Mừng Gio-an đúng với thực tế lịch sử. Trước đây, các nhà
Kinh Thánh đã đưa ra những giả thuyết để trả lời cho câu hỏi này, nhưng không giả
thuyết nào đạt được sự đồng thuận vì thiếu bằng chứng thuyết phục để khẳng định
trình thuật của Tin Mừng nào (Mác-cô hay Gio-an) đúng với thực tế lịch sử hơn.
Hơn nữa, giả như biết được Tin Mừng nào đúng với thực tế lịch sử hơn thì cũng
chẳng ích lợi bao nhiêu cho việc tìm hiểu ý nghĩa trình thuật Mác-cô và trình
thuật Gio-an.
Tìm hiểu Kinh
Thánh theo hướng này có nguy cơ làm nghèo sự phong phú của bản văn và có thể
dẫn đến việc coi trọng bản văn này hơn bản văn khác, khi nghĩ rằng bản văn này
phản ánh đúng lịch sử hơn bản văn kia. Việc phân biệt “thực tế lịch sử” với “sự
thật trong bản văn” giải thoát độc giả khỏi những khó khăn trên đây để tập
trung vào việc đi tìm ý nghĩa mặc khải trong tất cả các bản văn Kinh Thánh. Độc
giả sẽ thấy rằng cả hai trình thuật Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều (Tin Mừng
Mác-cô và Tin Mừng Gio-an) đều quan trọng. Mỗi trình thuật trình bày một khía
cạnh mặc khải về vai trò của Đức Giê-su và vai trò của các môn đệ.
Khi viết sách Tin
Mừng, các tác giả đã dựa vào những gì Đức Giê-su đã thực hiện trong sứ vụ của Người.
Về mặt lịch sử, có thể khẳng định Đức Giê-su đã thực hiện phép lạ bánh hoá
nhiều. Nhưng các chi tiết lịch sử của biến cố này vượt khỏi sự nắm bắt của độc
giả, vì các tác giả sách Tin Mừng không thuật lại biến cố như báo chí tường
thuật sự kiện. Khi kể lại câu chuyện, tác giả Tin Mừng muốn chuyển tải đến cộng
đoàn độc giả (cộng đoàn Mác-cô, cộng đoàn Gio-an...) thông điệp chứa đựng trong
trình thuật. Thông diệp này nhằm giúp cộng đoàn hiểu giáo huấn của Đức Giê-su
và củng cố niềm tin của họ.
Phân tích thuật
chuyện và cấu trúc quan tâm đến thông điệp chứa đựng trong bản văn, chứ không
đi tìm thực tế lịch sử đằng sau câu chuyện. Lựa chọn này về phương pháp giúp
độc giả nhận ra sự phong phú của bản văn qua những mặc khải độc đáo trong từng
bản văn. Chẳng hạn, trình thuật bánh hoá nhiều trong Tin Mừng Mác-cô nhấn mạnh
đề tài: “Sự cộng tác của các môn đệ vào sứ vụ của Đức Giê-su”, vì Người trao
cho các ông nhiệm vụ phân phát bánh cho dân chúng. Còn Tin Mừng Gio-an lại nhấn
mạnh đến căn tính của Đức Giê-su qua việc chính Người cho dân chúng ăn. Đức
Giê-su của Tin Mừng Gio-an cho dân chúng ăn, vì chính Người là bánh từ trời
xuống và chính Người ban sự sống cho thế gian. Trong diễn từ về bánh sự sống
(Ga 6,25-59), Đức Giê-su khẳng định với đám đông đã chứng kiến dấu lạ bánh hoá
nhiều ở Ga 6,32-33: “32 A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Không phải Mô-sê đã
cho các ông bánh bởi trời, nhưng chính Cha của Tôi cho các ông bánh bởi trời,
bánh đích thực, 33 vì bánh của Thiên Chúa là bánh xuống từ trời, và ban sự sống
cho thế gian.”
Tóm lại, phân
biệt thực tế lịch sử với bản văn và tập trung tìm kiếm ý nghĩa của trình thuật
cho phép độc giả đón nhận những điểm thần học quan trọng trong cả hai trình
thuật bánh hoá nhiều trong Mác-cô và trong Gio-an.
2. “Nhân vật lịch sử” và “nhân
vật trong bản văn”
Từ phân biệt thực
tế lịch sử với các tình tiết trong bản văn như trên, dẫn đến phân biệt “nhân
vật lịch sử” với “nhân vật trong bản văn”. Tương tự như sự phức tạp và huyền
nhiệm của thực tế lịch sử so với các chi tiết trong bản văn, sự thật về các
nhân vật lịch sử cũng rộng lớn, huyền nhiệm và bí ẩn hơn so với những gì được
thuật lại trong bản văn.
Chẳng hạn, nhân
vật Giu-đa được thuật lại trong bốn sách Tin Mừng và cho độc giả biết một số
chi tiết về con người Giu-đa lịch sử. Tuy nhiên vẫn còn đó khoảng cách lớn lao
giữa nhân vật lịch sử và nhân vật bản văn. Nhân vật lịch sử có những chuyển
biến nội tâm trong từng khoảng khắc, nên vượt ra khỏi sự nắm bắt của độc giả. Những
gì độc giả có trong tay là một số chi tiết về nhân vật trong bản văn chứ không
phải là nhân vật lịch sử. Phân tích thuật chuyện và cấu trúc giới hạn lãnh vực
nghiên cứu trong bản văn. Nói cách khác, phân tích thuật chuyện và cấu trúc
không đủ thẩm quyền để nói về lịch sử. Hãy để các nhà sử học nghiên cứu nhân
vật lịch sử, nhiệm vụ của phân tích thuật chuyện và cấu trúc là đi tìm ý nghĩa trình
thuật qua cách thức các nhân vật được kể lại trong bản văn.
Các tác giả Tin
Mừng trình bày các nhân vật với những chi tiết khác biệt. Chẳng hạn mỗi Tin
Mừng vẽ lên khuôn mặt nhân vật Giu-đa với những đường nét khác nhau. Sau khi
nộp Đức Giê-su và thấy Người bị kết án thì Giu-đa hối hận đem ba mươi đồng bạc
trả lại cho các thượng tế và kỳ mục. Chi tiết này chỉ được thuật lại trong Tin
Mừng Mát-thêu (Mt 27,3). Trong Tin Mừng Gio-an, nhân vật Giu-đa được trình bày
với nhiều đặc điểm khác với Tin Mừng Nhất Lãm. Có thể kể năm chi tiết riêng của
Tin Mừng Gio-an về nhân vật Giu-đa:
(1) Giu-đa trong
bản văn Gio-an được gọi là “người sẽ nộp Đức Giê-su”. Kiểu nói này mở đầu (Ga
6,60-71) và kết thúc câu chuyện về Giu-đa (Ga 13,1-32).
(2) Giu-đa được
đề cao khi ông được gọi là “Một người trong Nhóm Mười Hai”, nhưng nhân vật này
lại liên hệ với quỷ và Xa-tan (Ga 6,70-71; 13,2.27).
(3) Sự hiện diện
cũng như vắng mặt của Giu-đa trong nhóm các môn đệ là dấu hiệu sự khủng hoảng
trong nội bộ nhóm môn đệ về lòng trung tín với Thầy. Giu-đa là một người trong
Nhóm đã nộp Thầy và rời khỏi Nhóm (Ga 13,30).
(4) Ở Ga 13,1-32,
Giu-đa là một nhân vật không có cảm xúc, không nói một lời nào, đoạn văn này mở
đầu bằng chi tiết: “Quỷ gieo vào lòng Giu-đa ý định nộp Đức Giê-su” (Ga 13,2)
và kết thúc câu chuyện với việc “Xa-tan nhập vào Giu-đa (Ga 13,27). Những chi
tiết này cho thấy chính quỷ và Xa-tan đứng sau việc Giu-đa nộp Thầy.
(5) Cuối cùng
Giu-đa rời khỏi bữa ăn, đi ra ngoài, lúc đó trời đã tối (Ga 13,30). Giu-đa đi
vào “đêm tối” để thực hiện ý định “đen tối” của thế lực “bóng tối”. (Xem phân
tích nhân vật Giu-đa trong bài viết: Ga 13,1-32. Giờ đã đến. Nhân vật, thời gian, không gian).
Các chi tiết
riêng trong Tin Mừng Gio-an về nhân vật Giu-đa trên đây gợi lên ẩn ý sâu xa về
thần học. Trong đoạn văn Ga 13,1-32, nhân vật Giu-đa không bày tỏ cảm xúc,
không nói lời nào, nhưng mau mắn hành động: “Sau khi nhận lấy miếng bánh, ông
ấy [Giu-đa] đi ra ngay lập tức. Lúc đó, trời đã tối” (13,30). Những chi tiết này
làm cho nhân vật Giu-đa trở thành công cụ của quỷ, công cụ của Xa-tan. Khi những
người Do Thái tìm giết Đức Giê-su là họ đang làm công việc của quỷ (Ga 8,44), cũng
vậy khi Giu-đa nộp Đức Giê-su, ông ấy cũng đang thực hiện công việc của quỷ và ông
thuộc về quỷ.
Nhân vật Giu-đa
được thuật lại như trên có ý nghĩa đối với độc giả. Bản văn gợi đến hoàn cảnh
của cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I và qua đó nhắn gửi đến cộng đoàn người
tin qua mọi thời đại. Trong hoàn cảnh cộng đoàn bị bách hại, có thể đã xuất
hiện những thành viên trong cộng đoàn nộp Thầy, nộp anh em mình. Như Giu-đa là
“một trong Nhóm Mười Hai”, có thể một số môn đệ Đức Giê-su đã trở thành công cụ
của quỷ và làm công việc của quỷ. Như thế, nhân vật Giu-đa trở thành lời cảnh
báo cho từng thành viên trong cộng đoàn, đồng thời mời gọi độc giả đừng trở
thành công cụ của quỷ, nhưng hãy lắng nghe và tuân giữ giáo huấn của Đức
Giê-su. Trong hoàn cảnh bị thử thách, người môn đệ được mời gọi xác tín vào
tình yêu Đức Giê-su dành cho mình (Ga 13,1) và tin là Đức Giê-su đã chiến thắng
thế lực đen tối (Ga 16,33). Nhờ đó người môn đệ có thể trung tín với Thầy cho
đến cùng. (Xem phân tích nhân vật Giu-đa trong bối cảnh khủng hoảng của các môn
đệ: Khủng hoảng và giải pháp cho các môn đệ
trong Tin Mừng thứ tư, tr. 80-91).
3. “Tác giả, độc giả thực
sự” và “tác giả, độc giả tiềm ẩn”
Song song với tương quan giữa “sự thật lịch sử”
và “sự thật bản văn”, lối phân tích thuật chuyện và cấu trúc phân biệt “tác giả
và độc giả thực sự” với “tác giả và độc giả tiềm ẩn”. (Xem bài viết “Ba phương pháp phân tích, ba cách đặt câu
hỏi” và khái niệm về “tác giả” và “độc giả” trong Phân tích thuật chuyện và cấu trúc,
tr. 37-41).
Thông thường một tác phẩm ra đời là do một hay
nhiều tác giả và nhắm đến tầng lớp độc giả nào đó. Tác giả viết tác phẩm là con
người cụ thể trong lịch sử, nên gọi là “tác giả thực sự”. Độc giả mà “tác giả
thực sự” nhắm đến, gọi là “độc giả thực sự”. Chẳng hạn, bốn sách Tin Mừng được
viết ra bởi các tác giả được linh hứng. Các “tác giả thực sự” này, sống vào thế
kỷ I, viết sách Tin Mừng cho những “độc giả thực sự”. Họ là các cộng đoàn
Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an. Những cộng đoàn này đã cưu mang tác giả là
người đã viết sách Tin Mừng cho họ.
Tương tự như “nhân vật lịch sử”, “tác giả thực
sự” và “độc giả thực sự” là đối tượng nghiên cứu của ngành sử học. Cuộc đời “tác
giả thực sự” và “độc giả thực sự” này đa dạng và phong phú hơn rất nhiều so với
những chi tiết về họ trong bản văn. Để giới hạn lãnh vực và phạm vi nghiên cứu,
phân tích thuật chuyện và cấu trúc lấy bản văn làm đối tượng để tìm hiểu, nên
các lối phân tích văn chương này tập trung tìm hiểu “tác giả tiềm ẩn” và “độc
giả tiềm ẩn”.
“Tác giả tiềm ẩn” và “độc giả tiềm ẩn” là những
khái niệm giúp hiểu bản văn. “Tác giả tiềm ẩn” là hình ảnh tác giả được xây
dựng qua những chi tiết trong bản văn. Chẳng hạn, “tác giả tiềm ẩn” Tin Mừng
Gio-an thích kiểu hành văn “hiểu lầm” và “châm biếm”; sử dụng một số từ ngữ đặc
thù, như chỉ dùng từ “dấu lạ” mà không dùng từ “phép lạ”; chỉ dùng từ “môn đệ”
chứ không dùng từ “tông đồ”; hay dùng ngôn ngữ biểu tượng như “ánh sáng”, “bóng
tối”, “ở lại” trong ai đó v.v…; sau các dấu lạ thường kèm theo diễn từ của Đức
Giê-su v.v… Những đặc điểm này của tác giả được rút ra từ bản văn và kiểm chứng
được trong bản văn. Vì thế, càng đọc bản văn Tin Mừng càng biết rõ hơn về “tác
giả tiềm ẩn”.
“Độc giả tiềm ẩn” là độc giả hiểu được những
gì “tác giả tiềm ẩn” muốn nói qua bản văn. Vì thế, càng hiểu ý nghĩa bản văn thì
độc giả ngày nay càng xích lại gần với “độc giả tiềm ẩn”, nghĩa là đọc ra được điều
“tác giả tiềm ẩn” trình bày qua trình thuật. Độc giả ngày nay, không phải là
“độc giả tiềm ẩn” mà đang cố gắng đứng vào vị trí của “độc giả tiềm ẩn” nhờ việc
tìm hiểu ý nghĩa bản văn.
Kết
Luận
Phân biệt giữa lịch sử và bản văn như trên là
yếu tố nền tảng trong phân tích thuật chuyện và cấu trúc. Tôn trọng lãnh vực
nghiên cứu sử học và khai thác bản văn như một bức tranh, một toà nhà để tìm
hiểu ý nghĩa của chúng là đóng góp của phân tích thuật chuyện và cấu trúc vào
việc học hỏi và tìm hiểu Kinh Thánh hiện nay./.
Nguồn : http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2020/02/su-that-ban-van-su-that-lich-su.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét