14/11/2024

“Điều răn” (調 噒) hay “giới răn” (誡 噒)

 

Núi Xi-nai và Tu viện Thánh Ca-ta-ri-na


Trong các bài viết và sách báo Ki-tô giáo, chúng ta thường gặp các từ “giới răn”, “mười giới răn”, “giới răn trọng nhất”, “giới răn mến Chúa yêu người”, “giới răn mới” (tìm từ “giới răn” trên web). Những kiểu nói này chỉ về “mười điều răn” trong Cựu Ước (Xh 20,1-17 // Đnl 5,6-21), “điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 12,28-34 // Mt 22,36-40 // Lc 10,25-28) và “điều răn mới” trong Tin Mừng Gio-an (Ga 13,34; 15,12). Bài viết này quan sát cách dùng hai từ “giới” và “răn” trong chữ Hán và chữ Nôm, cũng như các bản dịch Kinh Thánh về đề tài này, từ đó đề nghị dùng từ “điều răn”, từ này phù hợp hơn khi bàn về Kinh Thánh.

Thiều Chửu, Hán–Việt tự điển, 2009, tr. 1048-1049, liệt kệ 18 chữ Hán đọc là “giới”; trong đó có hai từ liên quan đến bài viết:  (phồn thể  誡,giản thể ). Hai từ (đọc là “giới”) đều có bộ qua (binh khí) và bộ củng (chắp tay) với ý nghĩa hai tay nắm vững vũ khí để chiến đấu trên con đường tu luyện bằng việc giữ điều răn. Từ (giới) có thêm bộ ngôn  (lời nói), diễn tả những lời răn dạy; chẳng hạn, danh sách mười điều răn trong Cựu Ước chữ Hán là 十誡 (thập giới), viết đầy đủ  十 條 誡(thập điều giới mệnh), chữ Nôm là 調 (Mười điều răn). “Điều răn mới” trong Tin Mừng Gio-an (Ga 13,34), chữ Hán là 新 命 令 (tân mệnh lệnh) hay 新 誡 令 (tân giới mệnh); chữ Nôm là 調 (điều răn mới).

Theo Thiều Chửu, Hán–Việt Tự Điển, chữ (giới) có năm nghĩa: (1) răn, như “khuyến giới”; (2) phòng bị, như “dư hữu giới tâm”; (3) trai giới, nghĩa là trước khi cúng giỗ ăn chay tắm sạch để làm lễ cho kính; (4) lấy làm răn, như “giới tửu”; “ngũ giới” của Phật giáo là năm điều không nên làm; (5) cõi, như từ  (giới hạn, hạ giới). Chữ (giới) có ba nghĩa (1) bài răn bảo, như “giới tử thư” (thơ răn bảo con); (2) trừng giới (dùng hình phạt nhẹ cho biết sợ); (3) sai, bảo.

Chữ Nôm 調 (điều răn) tương đương với các chữ Hán là 命 令 (mệnh lệnh), 誡 令 (giới mệnh). Chữ Hán (giới)  được dùng trong chữ Nôm (giới) với hai nghĩa: (1) “Điều cấm kỵ”, “kiêng cữ”; (2) “che dấu”, “che đỡ” (x. Nguyễn Quang Hồng, Tự Điển Chữ Nôm Dẫn Giải, 2021).

Trong hai chữ Hán (giới) đã có nghĩa “răn” (khuyên răn, răn bảo), nếu dùng từ “giới răn” () trong tiếng Việt thì có nghĩa “răn răn”. Đây là cách cấu tạo từ ghép trong tiếng Việt: dùng một chữ Hán và một chữ Nôm đồng nghĩa; trong đó chữ Nôm giải thích ý nghĩa của chữ Hán, chẳng hạn chữ Nôm “hiếu thảo” (孝 討) gồm từ Hán có nghĩa “hết lòng phụng dưỡng cha mẹ”, đứng trước chữ Nôm có nghĩa “lòng thành”, “hiếu thuận”. Chữ Nôm (thảo) giải thích chữ Hán (hiếu) làm thành cụm từ tiếng Việt “hiếu thảo”. Cách dùng tương tự trong tiếng Việt như “băng giá”, “tiễn đưa”, “kỳ lạ”, “kính nể”, v.v....

Trong Cựu Ước, Xh 24,12 viết: “ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: ‘Hãy lên núi (núi Xi-nai, Xh 19,11) với Ta và ở lại đó; Ta sẽ ban cho ngươi những bia đá: luật và mệnh lệnh (BHS wǝhammiǝwāh, LXX kai tas entolas) Ta đã viết ra để dạy dỗ chúng (dân Ít-ra-en).” Trong câu này danh từ Híp-ri “miǝwāh” (mệnh lệnh, commandment), trong bản Hy-lạp LXX là danh từ “hê entolê” (mệnh lệnh, điều răn) ở đối cách, số nhiều “tas entolas”. “Điều răn mới” trong Tin Mừng Gio-an (Ga 13,34) có tiếng Hy-lạp là “entolê kainê”.

Các bản dịch Kinh Thánh thường dùng từ “điều răn” ở Ga 13,34; 14,15; 15,12. Bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt đầu tiên của Cố Chính Linh (Albertus Schlicklin) dùng từ “điều răn” trong Quyển IV: Sấm truyền mới (1916). Cố Chính Linh dịch ba câu Đức Giê-su nói với các môn đệ như sau: Ga 13,34: “Tao truyền cho bay một điều răn mới, là bay hãy yêu thương nhau; tao đã yêu thương bay thế nào thì bay cũng hãy thương yêu nhau thế ấy”; Ga 14,15: “Nếu bay kính mến tao, thì bay hãy vâng giữ các điều răn tao”; và Ga 15,12: “Này là điều răn tao ban để bay thương yêu nhau như tao đã thương yêu bay vậy.” Năm 1926, cha Chính An (Fr. Marcus Gispert) xuất bản cuốn Bốn quyển sách Phúc-Âm Đức Chúa Giêsu Kirixitô, cũng dùng từ “điều răn” trong các câu trên. Bản dịch Kinh Thánh của cha Nguyễn Thế Thuấn dịch “điều răn mới” (Ga 13,34) và “các lịnh truyền” (Ga 14,15), “lịnh truyền” (Ga 15,12). Bản dịch của Nhóm CGKPV dùng từ “điều răn” trong ba câu này.

Từ những quan sát trên có thể đưa ra ba nhận định về cách dùng từ “điều răn” và “giới răn”:

-1. Cách dùng tiếng Việt bằng cách ghép từ “Hán + Nôm”, trong đó chữ Nôm giải thích chữ Hán như từ “giới răn”, chỉ diễn tả ý “khuyên răn”. Từ “điều răn”, chữ Nôm 調 , vừa không dùng chữ Hán, vừa phù hợp hơn với Kinh Thánh, chữ Nôm 調 (điều) chỉ từng khoảng mục của “lệnh truyền”.

-2. Theo văn phạm tiếng Việt, có thể dùng từ “giới răn” (Hán + Nôm) theo nghĩa chữ Nôm (răn) giải thích chữ Hán hay (giới). Tuy nhiên, chữ Nôm cũng dùng từ (giới) và có nghĩa “cấm kỵ”; chẳng hạn 五 戒 (ngũ giới) trong Phật giáo là năm điều cấm: sát sinh, trộp cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Vì thế từ “giới răn” có thể hiểu là điều cấm, không nên làm. Trong Kinh Thánh, từ “điều răn” đồng nghĩa với “lệnh truyền” bao gồm điều phải làm và không được làm.

-3. Trong Tự Điển Công Giáo của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (2016), có các mục từ “Mệnh lệnh”, “Điều răn mới”, “Mười điều răn”, không có mục từ “Giới răn”. Từ “giới răn” chỉ được nhắc đến trong mục từ “Mệnh lệnh”: “Mệnh lệnh còn gọi là điều răn hay giới răn, là chỉ thị của Thiên Chúa hay Hội Thánh truyền cho tín hữu phải tuân giữ” (tr. 583).

Tóm lại, khi bàn về lệnh truyền của ĐỨC CHÚA trong Cựu Ước và giáo huấn của Đức Giê-su trong Tân Ước thì từ “điều răn” vừa dễ hiểu trong tiếng Việt, vừa phù hợp với văn chương Kinh Thánh.

14/11/2024. Giu-se Lê Minh Thông, OP.

https://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2024/11/ieu-ran-hay-gioi-ran.html


Từ viết tắt

BHS: Biblia Hebraica Stuttgartensia, Kinh Thánh tiếng Híp-ri. Elliger, K.; Rudolph, W., (eds), Biblia Hebraica Stuttgartensia, (Hebrew Bible, Masoretic Text), Fourth Corrected Edition, Stuttgart 1990.

LXX: Kinh Thánh tiếng Hy-lạp, còn gọi là bản 70 (LXX). Rahlfs, A., (ed.), Septuaginta, (Old Greek Jewish Scriptures), Deutsche Bibelgesellschaft, (1935), 1979.

Thư mục:

Gispert, Marcus, (cha Chính An), Bốn quyển sách Phúc-Âm Đức Chúa Giêsu Kirixitô, (dịch và chú giải, song ngữ La-tinh–Annam), Phú Nhai Đường, 1926, Toà Giám mục Bùi Chu in lại, Hà Hội, Nxb. Tôn Giáo, 2014.

Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Từ điển Công Giáo, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 2016, 1278 tr.

Lê Đình Khẩn, Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt, Tp. Hồ Chí Minh, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2002.

Nguyễn Quang Hồng (biên soạn), Tự Điển Chữ Nôm Dẫn Giải, (tái bản, theo bản in năm 2014, có sửa chữa và bổ sung), tập 1 (A-M), tập 2 (N-Y), Hà Nội, Nxb. Khoa Học Xã hội, 2021, 2418 tr.

 Schlicklin, Albertus, (cố Chính Linh), Kinh Thánh, cứ bản Vulgata, Quyển IV, Sấm Truyền Mới, (dịch ra tiếng Annam và thích nghĩa, song ngữ Annam – La-tinh), Hồng Kông, Imprimerie de la Société des Missions-Étrangères, 1916.

Thiều Chửu, Hán–Việt Tự Điển, Hà Nội, Nxb. Văn Hoá, 2009, 1286 tr.


25/07/2024

Sách: Chi è “il discepolo che Gesù amava”?

 

Joseph Lê Minh Thông, Chi è “il discepolo che Gesù amava”?, 
(Biblioteca bibica 34), (dịch giả: G. Romagnoli),
Brescia, Editrice Queriniana, 2022, 136 p. 
(Dịch từ tiếng Pháp: Qui est “le disciple que Jésus aimait”?,
Éditions du Cerf, 2019).


Xem giới thiệu sách:

Tiếng Việt: Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư là ai?
https://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2010/10/gioi-thieu-sach-nguoi-mon-e-uc-gie-su_19.html
Tiếng Pháp: Qui est “le disciple que Jésus aimait”?
https://www.editionsducerf.fr/librairie/livre/18602/qui-est-le-disciple-que-jesus-aimait
Tiếng Ý: Chi è “il discepolo che Gesù amava”?
https://www.queriniana.it/libro/chi-e-il-discepolo-che-gesu-amava--4411
Các sách đã xuất bản tại:
https://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/p/sach.html

25/07/2024.
Giu-se Lê Minh Thông.

03/06/2024

Sách: Chú giải Tin Mừng Gio-an, tập 4



Giu-se Lê Minh Thông, Chú giải Tin Mừng Gio-an,
tập 4, Ga 6,1-71,
Hà Nội, Nxb. Hồng Đức, 2024, 604 tr.
ISBN: 978-604-89-6975-2.













Sách có bán tại:
Nhà sách Đức Mẹ, 38 Kỳ Đồng, P.9, Q.3, TP.HCM
ĐT: 38.439.540 / 38.438.607
Email: nsachdcct@gmail.com
Mở cửa: 8:00 - 21:00, thứ ba đến Chúa Nhật. Thứ hai nghỉ.

22/03/2024

Mc 15,34: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni?” (// Mt 27,46b)




Tin Mừng Mc kể về những gì xảy ra trước khi Đức Giê-su chết trên thập giá ở Mc 15,34-35: "34 Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: 'Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni?' được dịch là 'Lạy Thiên Chúa của Con, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi Con?' 35 Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: 'Kìa Ông ấy gọi Ê-li-a.'"

16/03/2024

Ga 12,23-24: Làm sao “chết” lại có thể “sinh nhiều hoa trái” được?




Đức Giê-su nói với các môn đệ ở Ga 12,23-24: “23 Giờ đã đến để Con Người được tôn vinh. 24 A-men a-men Thầy nói cho anh em, nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất không chết đi nó vẫn ở lại một mình; nhưng nếu chết đi, nó sinh nhiều hoa trái.”

07/03/2024

Ga 3,13-21: Tóm tắt ơn cứu độ liên quan đến Thiên Chúa, Đức Giê-su và con người




Trong Tin Mừng Gio-an, sau khi đối thoại với Ni-cô-đê-mô (3,1-12), lời độc thoại của Đức Giê-su (3,13-21) đã tóm tắt ơn cứu độ thuật lại trong Tin Mừng liên quan đến ba nhân vật: Thiên Chúa, Đức Giê-su và con người.

29/02/2024

Ga 2,13-22: Loan báo Thương Khó – Phục Sinh ngay khi khai mạc sứ vụ





Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su khai mạc sứ vụ qua hai trình thuật: (1) 2,1-12: dấu lạ hoá nước thành rượu ngon trong tiệc cưới ở Ca-na, miền Ga-li-lê. Biểu tượng rượu ngon hảo hạng diễn tả niềm vui, sức sống và sự dồi dào phong phú của thời Tân Ước. (2) 2,13-22: đuổi những người buôn bán ra khỏi quảng trường Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và nói về cuộc Thương Khó – Phục Sinh. Qua trình thuật Đức Giê-su khai mạc cách thờ phượng mới của thời Tân Ước: thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật (4,23-24).

22/02/2024

Mc 9,2-8: Châm biếm và hài hước: nói mà không biết nói gì!

 



Trong trình thuật Đức Giê-su biến đổi hình dạng trước ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an ở trên một ngọn núi cao (Mc 9,2-8), hai câu 9,5-6 diễn tả nét châm biếm và hài hước qua phản ứng của ba môn đệ.

05/02/2024

Hatha yoga: Động tác đơn giản, tập sáu năm, không ngày nào giống ngày nào

 


Uttanasana (1)



Uttanasana (2)



Động tác đơn giản: Cúi đầu về phía trước (Standing Forward Fold pose, Uttanasana) gồm hai giai đoạn, minh hoạ qua hai hình lấy trên web: giai đoạn đầu (hình 1), giai đoạn sau (hình 2).

22/01/2024

Mc 3,31-35: Đặc ân làm mẹ (mêtêr), anh/em (adelphos), chị/em (adelphê) của Đức Giê-su





Mc 3,31-35: “31 Mẹ của Người và anh em của Người đến, đứng ở ngoài và cho gọi Người ra. 32 Có một đám đông đang ngồi chung quanh Người, họ nói với Người: ‘Này, mẹ của Thầy và anh em của Thầy, [và chị em của Thầy] ở ngoài đang tìm Thầy.’ 33 Người lên tiếng nói với họ: ‘Ai là mẹ của Tôi và anh em [của Tôi]?’ 34 Rồi rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh Người, Người nói: ‘Đây là mẹ của Tôi và anh em của Tôi. 35 [Vì] người thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em của Tôi, chị em và là mẹ của Tôi.’” (// Mt 12,46-50; Lc 8,19-21).

18/01/2024

Mc 1,1-15: Tin mừng (euaggelion) của ai?




Trong bốn sách Tin Mừng, danh từ Hy-lạp “euaggelion” (tin mừng) xuất hiện 8 lần trong Mc (1,1.14.15; 8,35; 10,29; 13,10; 14,9; 16,15) và 4 lần trong Mt (Mt 4,23; 9,35; 24,14; 26,13). Động từ “euaggelizô” (báo tin mừng) xuất hiện 1 lần trong Mt (Mt 11,5) và 10 lần trong Lc.

04/01/2024

Mt 2,1-12: Các nhà chiêm tinh (magoi) và Vua dân Do Thái





Danh từ Hy-lạp “ho magos” có hai nghĩa: (1) Gốc từ “magos” có nghĩa “lớn, great” chỉ về tầng lớp trí thức ở Trung Đông cổ, nhất là ở Ba-tư. Họ thường thuộc hàng thượng tế của tôn giáo địa phương và hiểu biết về thiên văn (experts in astrology). (2) Nghĩa thứ hai chỉ về các nhà phù thuỷ (magicians, sorcerers) sử dụng phép thuật (witchcraft).