26/03/2011

Lc 15,1-3.11-32: Dụ ngôn người cha nhân hậu và hai người con. Ai là con thực sự? Ai là người làm công?


Bản văn Lc 15,1-3.11-32 (NPD/CGKPV)

1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng.
2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng."
3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:
[4-10]
11 Rồi Đức Giê-su nói tiếp: "Một người kia có hai con trai.
12 Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con.
13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
14 "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu,
15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo.
16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho.
17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!
18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha,
19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.
20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
Anh còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy.
Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để.
21 Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.
22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu,
23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!
24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.
25 "Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa,
26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì.
27 Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.
28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ.
29 Cậu trả lời cha: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè.
30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!"
31 Nhưng người cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.
32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."



Tìm hiểu Lc 15,1-3.11-32


Nội dung

Dẫn nhập
1. Đức Giê-su kể dụ ngôn cho ai và để làm gì?
2. Vị trí của ba dụ ngôn
3. “Con thứ đi hoang” xin được coi như “người làm công”
4. “Con cả ở nhà” sống như “người làm công”
5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật trong trình thuật
6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả
Kết luận



Dẫn nhập

Đoạn Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Nhưng bản văn đề cao quyết định quay trở về của người con này hơn là sự hoang đàng của anh ta. Hiện nay người ta thường gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, nhưng có lẽ bản văn nhấn mạnh hơn đến sự không nhân hậu của người con cả, là người đã trách cha và miệt thị em mình. Có thể dụ ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giê-su kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.

Sự phong phú về ý nghĩa của bản văn làm cho việc đặt một tựa đề thường là rất khó. Một câu chuyện mô tả ba cách nhìn cuộc đời khác nhau của ba nhân vật thì không thể tóm tắt chỉ trong dăm ba chữ. Có lẽ nên tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn này trong bối cảnh văn chương của nó, để từ đó có thể thưởng thức, lắng nghe và sống với dụ ngôn hơn là loay hoay tìm cách đặt một tựa đề.

1. Đức Giê-su kể dụ ngôn cho ai và để làm gì?

Tin Mừng Lu-ca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giê-su nói dụ ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức Giê-su kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:…”

Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giê-su kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giê-su và nghe Người giảng, mà chính Đức Giê-su tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giê-su, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giê-su để nghe Người giảng.

Trong bối cảnh trên, “Đức Giê-su kể cho họ dụ ngôn:…”. “Họ” – thính giả nghe các dụ ngôn trong bản văn – chính là những người Pha-ri-sêu và các kinh sư. Có thể hiểu thêm là có cả những người thu thuế và những người tội lỗi nữa, vì bản văn nói về họ. Như thế, mục đích việc Đức Giê-su kể dụ ngôn là để giải thích và trả lời cho câu hỏi đặt ra: Tại sao Đức Giê-su và những người thu thuế và tội lỗi lại đến với nhau? Đây là điều mà những người Pha-ri-sêu và các kinh sư cho là chướng tai gai mắt, nên dẫn đến việc xầm xì. Đồng thời, dụ ngôn cũng cho biết thực chất về cách cư xử của họ.

Ngày nay, nhân vật “họ” là bất kỳ ai đọc bản văn. Thực vậy, độc giả mới là thính giả đích thực của câu chuyện, vì bản văn được viết ra cho họ. Độc giả trực tiếp là cộng đoàn Lu-ca cuối thế kỷ I, tiếp đến là độc giả qua mọi thời đại, với tư cách là người đọc bản văn. Vậy, dụ ngôn này có ý nghĩa gì cho độc giả? Câu chuyện này nói gì với độc giả là tất cả chúng ta ngày nay?

2. Vị trí của ba dụ ngôn

Trong Lc 15, Đức Giê-su kể ba dụ ngôn, trong đó, hai dụ ngôn đầu tiên rất ngắn, nói về con chiên đi lạc (Lc 15,4-7) và đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10). Hai dụ ngôn này diễn tả tấm lòng của Thiên Chúa dành cho những người lạc lối, qua hình ảnh người mục tử đi tìm cho bằng được chiên lạc và người phụ nữ tìm cho bằng được đồng tiền bị mất. Điều hai dụ ngôn này nhấn mạnh là chính Thiên Chúa đi bước trước để tìm kiếm những gì đã mất. Áp dụng vào bối cảnh câu chuyện thì hai dụ ngôn đầu tiên muốn ám chỉ Đức Giê-su, Người đến để tìm kiếm những con chiên lạc, tìm kiếm những gì đã mất. Cụ thể là Người đến với những người thu thuế và tội lỗi để dẫn họ trở về với Thiên Chúa.

Dụ ngôn thứ ba, tạm gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, dài hơn và ý nghĩa phong phú hơn. Dụ ngôn thứ ba này bổ túc thêm những gì hai dụ ngôn trước chưa diễn tả được. Điểm mới trong dụ ngôn này là chính “con chiên lạc” tự tìm đường trở về với người mục tử, qua việc đứa con hoang đàng quyết định trở về với cha của mình, chứ người cha không đi tìm. Như thế, thay vì đi tìm chiên, đi tìm đồng bạc như trong hai dụ ngôn trước, thì dụ ngôn thứ ba trình bày hoàn cảnh và tâm tư của những người đi lạc. Đi lạc theo cả hai nghĩa: Bỏ nhà đi hoang (người con thứ) và đi lạc ngay tại nhà mình (người con cả), anh ta ở nhà mà sống như người làm công.

Tóm lại, hai dụ ngôn đầu giải thích tại sao Đức Giê-su tiếp đón và ăn uống với phường tội lỗi, dụ ngôn thứ ba giải thích hành động tích cực của những người thu thuế và những người tội lỗi: Họ đến với Đức Giê-su và nghe Người giảng. Dụ ngôn thứ ba còn cho biết thái độ của người cha và đề cao sự tự do của hai người con trong sự lựa chọn của mình.

3. “Con thứ đi hoang” xin được coi như “người làm công”
  
Người con thứ tự quyết định ra đi và tự quyết định trở về sau khi học được bài học quý giá từ cuộc sống. Người cha không ngăn cản con mình ra đi. Đó là cách tốt để người cha huấn luyện con mình có trách nhiệm với lựa chọn của mình. Như thế, nhận ra mình đã lạc đường và can đảm quyết định quay trở về là một bước tiến lớn trong sự trưởng thành nhân cách. Anh ta đã đi một bước dài trong tiến trình tự đào tạo bản thân. Điều anh ta tự nhủ đáng cho người đọc qua mọi thời đại học hỏi: “17Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ 20Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha” (15,17-20).

Hoàn cảnh sống và quyết định của người con thứ là lời mời gọi độc giả hãy học lấy từ cuộc sống, từ những thất bại, những bài học quý giá để làm cho mình trưởng thành hơn. Nhờ học trường đời mà người con thứ đã can đảm làm lại cuộc đời và biết lấy quyết định đúng đắn, không mặc cảm tự ti hay tự tôn, cũng không sợ mất thể diện.

4. “Con cả ở nhà” sống như “người làm công”

Nhân vật phản diện của dụ ngôn người cha nhân hậu là “người con cả”. Thái độ và cách xử sự của anh ta ám chỉ thái độ của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư. Lời xầm xì giữa họ với nhau được đặt song song với lời người con cả trách cha mình và nhục mạ em mình: “29Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15,29-30). Lời trách móc cha (ám chỉ Đức Giê-su trong lời xầm xì ở 15,2) và lời chối bỏ em mình (ám chỉ những người thu thuế và tội lỗi ở 15,1-2) cho thấy người con cả đã không sống “tư cách làm con” và “tư cách làm anh” trong gia đình. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư cũng đang xử sự như người con cả.

Không sống và cư xử như một người con, không đứng ở địa vị con cái, người con cả suy nghĩ và hành động như một đứa ở trong nhà. Từ trước đến bây giờ anh ta không biết đến điều cha anh nói: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15,31).

Người con cả cũng không sống tư cách làm anh vì đã không đón nhận sự trở về của em mình. Anh ta đã phủ nhận tư cách làm anh và hạ thấp em mình khi nói: “Thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (15,30). Đó là “thằng con của cha” chứ không phải là “đứa em của con”, một đứa em đáng quý trọng vì đã biết ăn năn hối cải trở về.

Điều trớ trêu và châm biếm trong bản văn là tương phản giữa hai người con: Người con thứ quay trở về chỉ xin được cha xem là “người làm công”, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng “làm con”, thì người con thứ lại được hưởng trọn vẹn quyền “làm con” qua các biểu tượng: Mặc áo đẹp, đeo nhẫn, đi dép và dự tiệc mừng (15,22-23). Ngược lại người anh cả tự cho mình là “người con gương mẫu”, đã có công “hầu hạ” cha trong nhiều năm, anh ta lại sống và suy nghĩ “như người làm công”, “như người làm thuê”, “như đứa ở” chứ không phải là “người con thực sự”.

Tình trạng của người con cả trầm trọng hơn nhiều so với việc bỏ nhà đi hoang của người con thứ. Bởi vì người con cả ở nhà với cha nhưng không sống tư cách làm con mà anh ta lại không biết điều ấy, nghĩa là vẫn nghĩ mình là đứa con ngoan và hiếu thảo.

5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật trong trình thuật

Người con cả tưởng mình là con cái trong nhà, nhưng thực ra là không phải. Cũng vậy, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư tưởng mình thuộc về Thiên Chúa, làm công việc của Thiên Chúa, phục vụ Thiên Chúa, nhưng thực sự không phải. Họ đang đi ngược lại ý định của Thiên Chúa khi chống lại Đức Giê-su.

Sự tương phản giữa các nhân vật: “con cả – con thứ”, “những người Pha-ri-sêu và các kinh sư – những người thu thuế và những người tội lỗi” song song với nhau. Bên ngoài, người con cả ở nhà là đứa con ngoan, chăm lo hầu hạ cha nhưng thực chất bên trong anh ta là đứa ở. Bên ngoài, người con thứ bỏ nhà đi hoang, không nhận ra lòng thương xót của cha, nhưng tự trong lòng, anh đã biết hối cải quay về. Như thế người con đi hoang trở về mới là “người con đích thực”. Mạch văn cho phép hiểu: Những người thu thuế và những người tội lỗi sám hối trở về với Thiên Chúa mới thực sự là con cái Thiên Chúa. Còn những người Pha-ri-sêu và các kinh sư là những người làm thuê.

Liệu những người Pha-ri-sêu có hiểu và có nhận ra sự trớ trêu này qua dụ ngôn không? Bản văn không cho độc giả biết, vì dụ ngôn kết cách đột ngột với lời dạy của người cha: “31Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (15,31-32). Dụ ngôn kết dở dang ở đây để lại nhiều câu hỏi:

Người anh cả phản ứng thế nào trước lời dạy của cha mình? Liệu lời giáo huấn này có làm người con cả thay đổi lập trường để biến tức giận thành niềm vui và trở lại làm con cái trong nhà hay không? Liệu người anh có đổi cách suy nghĩ của người nô lệ để sống và ứng xử với cha với tư cách là con và đón nhận em mình với tư cách là anh hay không?

Khi áp dụng dụ ngôn cho những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, độc giả biết câu trả lời cho những câu hỏi trên là “KHÔNG”, bằng chứng là trong phần tiếp của Tin Mừng, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư đã đeo đuổi cho đến cùng việc chống đối Đức Giê-su và họ đã góp phần vào việc giết chết Đức Giê-su trên thập giá.

6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả

Những điều trên đây là diễn tiến trình thuật trong Tin Mừng, điều quan trọng mà bản văn nhắm tới là quyết định của độc giả, vì bản văn được viết ra cho độc giả. Ở đây là độc giả của cộng đoàn Lu-ca cuối thế kỷ I và cũng độc giả qua mọi thời đại. Độc giả nghĩ gì và quyết định thế nào sau khi đọc trình thuật. Thiết nghĩ độc giả có thể rút ra ba bài học từ câu chuyện: 

1) Bài học nơi người con thứ. Dám quyết định, dám ra đi, dám sống hết mình, dám nhìn nhận sự thật về mình, dám nhận trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Đáng phục hơn cả là dám đứng lên, dám làm lại cuộc đời, dám quay lưng lại với quá khứ, dám hối cải và trở về để sống trọn vẹn tư cách làm con trong tình yêu thương của cha mình. Trong trình thuật, việc những người thu thế và tội lỗi “đến với Đức Giê-su và nghe Người giảng” (15,1) được ví như là người con thứ đã can đảm hối cải trở về. Vậy, độc giả đang ở giai đoạn nào trong hành trình tìm kiếm của người con thứ?

2) Bài học từ người anh cả. Có bao giờ chúng ta nghĩ mình là “con cái trong nhà” mà thực sự đang sống như “người làm công” hay không? Trong tương quan với anh chị em mình, làm thế nào để đón nhận và cùng chia sẻ trách nhiệm với anh chị em mình chứ không dùng kiểu nói của người con cả: “Thằng con của cha đó”. Liệu lời dạy của người cha có làm cho độc giả nhận ra sự thật trong tương quan với Cha trên trời và với anh chị em mình không?

3) Bài học nơi cách xử sự của người cha. Có nhiều điều để học hỏi nơi người cha về cách giải quyết những vấn đề phức tạp và tế nhị  trong cuộc sống. Có thể nói, khởi đầu dụ ngôn, người cha có hai người con, nhưng trong thực tế lại không có đứa con nào cả. Một đứa thì đi hoang, một đứa thì sống ở nhà với cha nhưng lại sống như một người làm công chứ không phải là con. Làm thế nào để vừa tôn trọng tự do của đứa con muốn ra đi, vừa biết chỉ dạy cho đứa con ở lại về cách thức làm con? Bản văn mời gọi các bậc cha mẹ – cũng như những người có trách nhiệm trên người khác – biết áp dụng cách giáo dục của người cha: Dùng tình thương để cảm hoá và tôn trọng sự tự do để giáo dục sự tự do. Nhờ đó con người có khả năng lấy những quyết định đúng đắn cho mình.

Cả ba bài học trên được trao vào tay người đọc là tất cả chúng ta. Câu chuyện vẫn chỉ là câu chuyện, dụ ngôn vẫn mãi mãi là dụ ngôn. Bản văn luôn là những gợi ý, những đề nghị chứ không trả lời thay cho chúng ta.

Kết luận

Trình thuật mở đầu (Lc 15,1-3) và dụ ngôn người cha nhân hậu với hai người con (Lc 15,11-32) vẽ lên một bức tranh với nhiều màu sắc mạnh mẽ có khả năng dẫn người đọc đến suy tư và nhận ra chính mình trong các nhân vật ấy.

Phần mở đầu (15,1-3) và phần dụ ngôn (15,11-32) soi sáng cho nhau và nối kết chặt chẽ với nhau. Đứa con hoang đàng sám hối trở về là hình ảnh của những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giê-su và nghe Người giảng dạy. Cách xử sự của người con cả là hình ảnh của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư. Họ tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa, nhưng khi chống đối và bách hại Đức Giê-su, họ đã lạc đường và không sống tư cách làm con Thiên Chúa nữa. Tất cả những tình tiết trong toàn bộ trình thuật được gửi đến độc giả như một lời mời gọi độc giả đọc ra được ý nghĩa của câu chuyện.

Ước mong độc giả thưởng thức được những chi tiết độc đáo trong bản văn, với những nét đẹp, nét tương phản, nét châm biếm, cùng với những lời trách móc và sự hiểu lầm của các nhân vật… Nhờ việc sống với bản văn và suy niệm dụ ngôn, người đọc sẽ được biến đổi để dần dần sống trọn vẹn tư cách làm con và xây dựng tình anh em nhờ sự hối cải và trở về với Tình Yêu đích thực của Cha trên trời./.

Ngày 26 tháng 03 năm 2011.
Giu-se Lê Minh Thông, O.P.  

12 nhận xét:

  1. Với những suy tư rất sâu sắc và mới lạ trong bài chia sẻ đã làm nổi bật tính cách của hai nhân vật là người con thứ và người con cả. Mùa chay đang đến và đang qua đi nếu sống tâm tình của người con thứ thì thật tuyệt vời nhưng ngược lại ta luôn có tính cách, thái độ của người con cả, không chấp nhận người khác, luôn nghĩ mình là hay, là tốt, là giữ đúng luật.
    Để sống được tâm tình trở về, nhìn nhận lại bản thân mình, luôn có thái độ chọn lựa, và can đảm quyết định quay trở về với Thiên Chúa, với Người Cha đang chờ đợi ta từng giây phút.

    Trả lờiXóa
  2. Cám ơn bài chia sẻ „Dụ ngôn người cha nhân hậu và hai người con.
    Ai là con thực sự? Ai là người làm công? »của cha thật nhiều.
    Sống là đi tìm hạnh phúc, làm cho đời mình được tươi vui. Khi mình chọn lựa sai lầm, là làm cho đời mình bị tổn thương, hạnh phúc bị hao mòn. Vì thế, khi biết cái sai và cái đúng, thì người ta không còn tự do để chọn cái sai nữa, mà phải chọn cái đúng.
    Dụ ngôn người cha nhân hậu và hai người con được kết thúc một cách đột ngột với lời dạy của người cha: “31Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (15,31-32).“
    Người cha nhân hậu là người cha có trái tim biết rung cảm trước những đau thương, những nhu cầu thiết yếu của người khác, biết quên mình vì người khác, biết giúp đỡ kẻ khác, giúp họ tìm được con đường mở lòng mình ra.
    Con người trong mọi thời và mọi nơi đều đi tìm ý nghĩa cuộc sống và họ sẽ còn tiếp tục tìm. Vậy, phải chăng cuộc sống con người có ý nghĩa đích thực nhất, là cùng đích căn bản, khi người ta khám phá ra được Tình Yêu, đón nhận nó và trao nó đi tiếp?

    Trả lờiXóa
  3. Một trong những yếu tố quan trọng đem lại hạnh phúc là “yêu và được yêu”. Đúng hơn là “được yêu và yêu”, bởi vì để “yêu thương” giả thiết đã biết “yêu thương là gì”. Con người học bài học yêu thương từ trong dạ mẹ. Lúc chào đời thì được cha mẹ, anh chị, người thân và bà con lối xóm yêu thương dùm bọc. Nhờ đó, con người biết thế nào là yêu thương. Biết mình được yêu thương mới có thể sống và xử sự bằng tình yêu với người khác để mang lại hạnh phúc cho mình và cho người khác.

    Đứa con hoang đàng quyết định ra đi là để tự khẳng định mình, nhưng quan trọng hơn, anh ta dám trở về vì nhận ra yếu tố nền tảng: “Cha yêu thương mình”. Tình yêu của người cha là động lực để anh ta quyết định trở về. Người con cả ở nhà, nhưng không nhận ra tình thương của cha, nên đã sống như người làm công và cũng chẳng biết yêu thương em mình. Lời người cha nói với người con cả ở cuối bài Tim Mừng (Lc 15,31-32) là lời mời gọi anh ta nhận ra rằng: anh là người được cha yêu mến, để từ đó “sống với cha” và “xử với em” bằng tình thương.

    Dụ ngôn mời gọi độc giả nhận ra tình yêu của Thiên Chúa – thể hiện cụ thể nơi Đức Giê-su – dành cho độc giả. Quyết định trở về, quyết định sống tốt hơn và quyết định sống yêu thương anh chị em mình là những quyết định được đặt trên nền tảng: TÌNH YÊU CAO CẢ VÀ TÌNH YÊU CHO ĐẾN CÙNG CỦA AI ĐÓ DÀNH CHO MÌNH.

    Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su là người đã yêu thương những kẻ thuộc về mình “cho đến cùng về mức độ” (tình yêu cao cả, Ga 15,13a) và Người đã yêu “cho đến cùng về thời gian” (yêu cho đến chết vì yêu, Ga 15,13b). Ước mong độc giả nhận ra được TÌNH YÊU của Đức Giê-su dành cho mình để rồi tất cả mọi quyết định đều khởi đi từ đó./.

    Trả lờiXóa
  4. Cảm phục cha đã vẽ nên một bộ tranh gồm ba bức tranh mà mỗi bức tranh là một sứ điệp cho độc giả chiêm ngưỡng, suy tư để thấy “lòng thương xót” là mầu nhiệm vĩ đại của Thiên Chúa. Con nhận thấy mỗi nhân vật trong bức tranh đã được cha phác hoạ thật chính xác để người ngắm tranh cảm nhận được sứ điệp Tin Mừng vẫn đang tiếp tục được viết ra cho chính mình, trong chính thâm tâm của mình.
    Thưa cha quý mến, dầu hiểu biết như thế, nhưng con cảm thấy nhiều khi chưa kiên trì đủ, hay nói đúng hơn chưa có được tấm lòng của Thiên Chúa để can đảm học cách xử sự của người cha: Dùng tình thương để cảm hoá và tôn trong sự tự do để giáo dục sự tự do. Nhưng thật khó quá, giáo dục nhiều khi phải cưỡng bách, nhất là đối với thanh thiếu niên ngày nay. Nhiều em biến luôn, đâu biết trở về như anh chàng con thứ, nếu tôn trọng tự do!? Con cám ơn Cha nhiều.

    Trả lờiXóa
  5. Tình tiết của dụ ngôn mời gọi độc giả “dùng tình thương để cảm hoá và tôn trọng sự tự do để giáo dục sự tự do”, nhưng áp dụng như thế nào là cả một nghệ thuật, cần có kinh nghiệm và thời gian. Dụ ngôn là một câu chuyện để diễn tả một điều gì đó. Dụ ngôn kết thúc có hậu, nhưng khi phải lấy một quyết định cụ thể, chúng ta không biết sự việc sẽ kết thúc sẽ thế nào, con mình “đi luôn” hay “trở về”. Vì thế, không thể áp dụng dụ ngôn theo mặt chữ, nghĩa là không phải hễ con cái xin chia gia tài là cha mẹ chia gia tài mới là áp dụng dụ ngôn. Bởi vì, có thể cha mẹ sẵn sàng chia gia tài cho con nhưng vẫn không thương con, không tin tưởng ở con mình. Ngược lại, cha mẹ có thể không chia gia tài, nhưng lại là cách thương con vì hiểu biết tính khí của con mình chưa đủ khả năng để đối chọi với thử thách trong cuộc đời.

    Quyết định thế nào còn tuỳ thuộc nhiều yếu tố như tính tình của người con (nhút nhát hay can đảm), môi trường cuộc sống (thôn quê hay thành phố), đi đâu và để làm gì v.v… Như thế ý tưởng “chia gia tài” trong dụ ngôn có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng, đó là một trong muôn vàn cách diễn tả “lòng nhân hậu” của người cha. Độc giả có thể làm bất cứ điều gì để diễn tả “lòng nhân hậu” này, như thế là sống và áp dụng dụ ngôn. Điều này không dễ dàng trong từng hoàn cảnh cụ thể, vì thế, vẫn cần suy niệm và sống với Lời Chúa để Lời ấy biến đổi chính mình. Nhờ đó, độc giả có thể lấy quyết định phù hợp với từng hoàn cảnh, phù hợp với từng con người cụ thể với mục đích: “dùng tình thương để cảm hoá và tôn trọng sự tự do để giáo dục sự tự do”./.

    Trả lờiXóa
  6. Tình yêu và tự do là hai món quà quí mà Thiên chúa ban tặng cho mỗi một con người khi được tạo dựng. Nhờ có tình yêu, con người mới sống thêm „đậm đà, mặn nồng“; Có tự do, con người mới sống „thành người“.
    Tự do là yếu tố quyết định tình yêu. Khi tôi nghi ngờ, oán giận ai, tôi phập phồng, lo âu vì sợ, họ lại thù oán tôi. Vậy, đâu là tình yêu! đâu là tự do! Tôi chỉ có tự do thật sự, khi tôi được sống trong tình yêu thương, được người yêu mến và mến thương người. Từ đó, tôi mới cảm thấy tâm hồn bình an và tràn ngập niềm vui!
    Có lẽ tự do, ai cũng thích! Hôm nay, người ta nói rất nhiều về tự do: Người đã lập gia đình thì nuối tiếc những ngày tháng qua“ Tình mất vui khi đã vẹn câu thề“. Người Linh mục thì bàn bạc lại luật độc thân...etc. Đôi khi họ phài trả gía rất đắt để được tự do. Mặc dầu thế, phải chăng người thích tự do thì nhiều, nhưng người muốn được tự do thì ít?

    Trả lờiXóa
  7. “Tự do” là một đề tài phong phú và phức tạp. Định nghĩa “Tự do là gì?”, “Thế nào là tự do?” còn tuỳ thuộc quan niệm thế nào về thế giới và về con người. Trong thực tế, làm sao có thể có tự do khi con người bị lệ thuộc nhiều yếu tố. Chẳng hạn, sống trong xã hội, con người bị chi phối bởi đủ thứ luật lệ; sống trên trái đất, con người bị chi phối bởi quy luật của thiên nhiên… Không phủ nhận những ràng buộc trên, người ta vẫn đòi hỏi và khao khát sống tự do, khi xảy ra trường hợp “tự do của người này” xâm phạm đến “tự do của người khác” hay trường hợp lề luật không phục vụ cho con người và con người đã trở thành nô lệ cho lề luật.

    Về nguyên tắc, các luật lệ và quy tắc của mọi tổ chức là để phục vụ con người. Khi những người Pha-ri-sêu nệ luật, Đức Giê-su đã nói với họ: “Ngày sa-bát được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” (Mc 2,27). Nếu giữ đúng tinh thần này của lề luật, con người sẵn sàng “mất tự do” (vì tuân giữ lề luật) để được “sống tự do” ở một cấp độ cao hơn. Vì tuân giữ lề luật như thế sẽ giúp con người phát triển tốt trong sự tôn trọng người khác.

    Ở cấp độ lẽ sống, “sự tự do” có ý nghĩa sống còn. Sự tự do đích thực có khả năng giải thoát mình khỏi mọi ràng buộc và có thể giải thoát người khác, nghĩa là làm cho người khác được tự do. Đức Giê-su đã sống sự tự do đích thực trong một xã hội cụ thể với những hệ quả của nó. Người đã mang đến cho con người sự tự do đích thực: Sự tự do của con cái Thiên Chúa. Người môn đệ Đức Giê-su sống trong xã hội và sống trên trái đất này với những lệ thuộc tất yếu. Nhưng ở cấp độ lẽ sống, người môn đệ được tự do, được giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc kể cả ràng buộc khủng khiếp nhất là sự chết.

    Như thế, “muốn” hay “thích” tự do thì chưa đủ mà quan trọng hơn là học hỏi suốt cả đời để biết “sử dụng sự tự do” và “sống sự tự do” một cách có trách nhiệm. Đó là sự tự do gắn liền với lòng mến và tôn trọng tự do của người khác. Đó là sự tự do có khả năng tôi luyện con người trong khó khăn thử thách; sự tự do có khả năng làm cho mình và cho người khác được lớn lên và được trưởng thành về mọi mặt./.

    Trả lờiXóa
  8. Đúng như Cha chia sẻ:Sự tự do có khả năng làm cho mình và cho người khác được lớn lên và được trưởng thành về mọi mặt.
    Mà mọi người đều nhận biết điều đó, nhưng "hình như" họ không làm chủ được cách suy nghĩ, cách lựa chọn trong sự sử dụng tự do qua hành động và lời nói của chính mình.

    Trả lờiXóa
  9. Con rất tâm đắc câu: “muốn” hay “thích” tự do thì chưa đủ mà quan trọng hơn là học hỏi suốt cả đời để biết “sử dụng sự tự do” và “sống sự tự do” một cách có trách nhiệm. Điều này thật chính xác bởi sự tự do tạo nên phẩm giá con người trong lãnh vực tâm lý cũng như tôn giáo. Nhưng để biết sống sự tự do của con cái Thiên Chúa mà không lạm dụng tự do để tự biến mình thành nô lệ những điều bất chính thì đúng là không đơn giản chút nào! Điều này cần phải được học hỏi và tự học hỏi để biện phân cho đúng mới can đảm đánh đổi vì Tin Mừng.

    Trả lờiXóa
  10. Nói tóm lại, Thiên Chúa ban tặng cho mỗi một con người "tự do" để con người cố gắng sống "thành người". Thưa cha, phải chăng sống "thành người" là "Thánh"?

    Trả lờiXóa
  11. Đúng là con người luôn cố gắng để “sống thành người”. Nếu hiểu “đã thành người rồi” thì không phải “học để làm người” nữa, thì không ai dám nói “tôi đã thành người”. Có thể nói chúng ta “chưa là người” vì đang “học làm người”, và quá trình “học làm người” hay “sống thành người” - nghĩa là sống sao cho ra người - chỉ kết thúc khi con người nhắm mắt xuôi tay. Lúc ấy mới nói đến chuyện “là thánh” hay “không là thánh”. Người ta có thể gọi một người đạo đức là “thánh sống”, nhưng bao lâu “thánh” còn “sống” thì vẫn có thể thay đổi. “Là người” hay “không là người” thì chính mỗi người phải tự mình “làm người”, còn “là thánh” hay “không là thánh” là do người khác thẩm định chứ không phải do mình.

    Tuy nhiên, trong Hội Thánh Công Giáo, tất cả các Ki-tô hữu được mời gọi nên thánh, mà con đường để nên thánh cũng rất đa dạng. Có những vị thánh sống công minh chính trực suốt cả đời, nhưng cũng có người hoán cải vào phút chót như “người trộm lành”, “trộm” luôn cả thiên đàng. Có người mới sinh ra đã là thánh, như “các thánh Anh Hài”.v.v... Như thế, làm thánh hay nên thánh, thì không phân biệt tuổi tác hay hoàn cảnh sống của mỗi người.

    Hơn nữa, có hai loại thánh, thánh được “phong thánh”, và thánh là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa với Chúa. Tất cả chúng ta là thánh, nếu chúng ta “sống LÀM con cái Thiên Chúa” và “chết LÀ con cái Thiên Chúa”. Vì có ơn gọi nên thánh, nên thánh Phao-lô gọi các Ki-tô hữu là “các thánh”. Hội Thánh là một cộng đoàn được mời gọi nên thánh, nên khi người tin vào Đức Giê-su sống đúng tư cách của người môn đệ thì đã là thánh rồi./.

    Trả lờiXóa
  12. Lời giải thích của cha làm con nhớ đến chuyện nhà hiền triết Diogène cầm đèn sáng giữa ban ngày ra chợ tìm người biết sống cho ra người. Nếu “đời là một cuộc chiến đấu không ngừng” thì việc luyện tập “thành nhân” quả là cuộc thao luyện cả đời như cha nói. Nếu có ai mong sớm là “thánh hiển tu” thì e chừng chung quanh mình sẽ có “nhiều thánh tử đạo” mà không biết! hoặc lại trở thành người “đạo đức… nhưng khó tính!” như tiêu đề một tiết mục trong một tác phẩm được viết dành cho giới trẻ! Đúng là ta cứ kiên trì học thành nhân trước khi thành thánh. Học sống ơn gọi làm người theo như nét đẹp nguyên thủy mà Thiên Chúa tặng ban cho mỗi người một các rất cá biệt, để làm nên những vẻ đẹp đa dạng phong phú cho cuộc đời này vốn có nhiều nếp nhăn thì đời sẽ đẹp hơn biết mấy. Bởi trưởng thành nhân bản là nền tảng xây dựng sự trưởng thành Kitô hữu và từ đó tiến dần đến hoàn hảo, xứng đáng với chức vị là “con cái Thiên Chúa”. Phải chăng đó cũng là đường lối sư phạm tuyệt vời của Thiên Chúa mà những ai muốn sống như người môn đệ Thầy Giêsu phải bước vào.
    Cám ơn Cha đã diễn nghĩa thật tròn đầy.

    Trả lờiXóa