Bài
viết tiếng Pháp và tiếng Anh:
Tác giả: Giuse
Lê Minh Thông, O.P.
Email:
josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 18 tháng 03 năm 2020.
Nội
dung
Dẫn nhập
1. Thần
Khí, Thánh Thần (14 lần)
-
Ga 7,39a.39b: Thần Khí
-
Ga 1,32b-33a: Thần Khí; 1,33b: Thánh Thần
-
Ga 14,17: Thần Khí sự thật; 14,26: Thánh Thần
2.
Thần Khí hay tâm linh (4,24; 6,63)
- Ga 4,24
-
Ga 6,63a
3.
Tâm linh, linh thiêng, thần khí (3,6; 4,23.24b; 6,63b)
4. Tâm
thần, tâm trí con người (11,33; 13,21)
5. Thần
khí Đức Giê-su gợi về Thần Khí Thiên Chúa (19,30)
6.
Gió (3,8a)
Kết luận
Dẫn nhập
Trong Kinh Thánh,
danh từ Hy-lạp: “pneuma”, gốc tiếng
Híp-ri: “ruah” có nghĩa khởi đầu là
“hơi thở”. Trong Tin Mừng Gio-an, danh từ này xuất hiện 24 lần (1,32.33a.33b;
3,5.6a.6b.8a.8b.34; 4,23.24a.24b; 6,63a.63b; 7,39a.39b; 11,33; 13,21; 14,17.26;
15,26; 16,13; 19,30; 20,22) và có nhiều nghĩa. Từ “pneuma” có nghĩa “Thần Khí” (viết hoa) không xuất hiện trong
10 chương (Ga 2; 5; 8–13; 17; 21) và được dùng nhiều nhất ở ch. 3 (6
lần).
Các bản dịch sau
đây được dùng để so sánh cách dịch từ “pneuma”
trong Tin Mừng Gio-an: - Giu-se Lê Minh Thông (Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ,
2011). - NPD/CGKPV
(Nhóm Phiên Dịch / Các Giờ Kinh Phụng Vụ, 2011). - BJ (La Bible de
Jérusalem, 2000). - TOB (Traduction Œcuménique de
la Bible, 2011). - RSV-SCE (Revised Standard Version - Second Catholic Edition, 2006). - NAB-RE (New American Bible,
Revised Edition, 1991 - Present).
- NASB (The New American Standard Bible, 1995). - NIV (The New International Version,
1984). - NKJV (The New King James Version, 1982). - NOV (Nova Vulgata Version).
Các nghĩa của từ
“pneuma” trong Tin Mừng Gio-an có thể
xếp thành sáu nhóm: (1) Thần Khí (Thiên Chúa), (2) Thần Khí Thiên Chúa hay
tâm linh, (3) Linh thiêng, tâm linh (chose
spirituelle), (4) Thần trí, tâm trí (con người), (5) Thần khí Đức
Giê-su gợi đến Thần Khí Thiên Chúa (19,30), (6) Gió (3,8).
1. Thần Khí, Thánh Thần (14 lần)
Nghĩa thứ nhất từ
“pneuma” là Thần Khí (viết hoa) Thiên
Chúa. Nghĩa này xuất hiện 14 lần với ba danh xưng: (a) Thần Khí (pneuma), 8 lần ở 1,32.33a;
3,5.6.8.34; 7,39a.39b; (b) Thánh Thần (pneuma
to hagion), dịch sát: “Thần Khí Thánh”, 3 lần ở 1,33b; 14,26; 20,22; (c)
Thần Khí sự thật (pneuma tês alêtheias), 3
lần ở 14,17; 15,26; 16,13. Dưới đây là một số trích dẫn minh hoạ.
- Ga 7,39a.39b: Thần Khí
Vào ngày cuối
cùng dịp lễ Lều, ngày long trọng nhất của dịp lễ, Đức Giê-su tuyên bố ở
7,37b-38: “37b Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống. 38 Người tin vào
Tôi, như Kinh Thánh đã nói: ‘Từ lòng người ấy sẽ tuôn chảy những dòng nước
sự sống.’” Người thuật chuyện giải thích cho độc giả ý nghĩa lời này trong câu
tiếp theo ở 7,39: “Điều đó, Người (Đức Giê-su) nói về Thần Khí (pneumatos) mà những kẻ tin vào
Người sẽ lãnh nhận. Tuy nhiên, Thần Khí (pneuma) chưa có, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh.” Hai
lần từ “pneuma” ở Ga 7,39 có nghĩa
Thần Khí (viết hoa).
- Ga 1,32b-33a: Thần Khí; 1,33b: Thánh
Thần
Đầu Tin Mừng,
Gio-an Tẩy Giả làm chứng về Đức Giê-su ở 1,32b-34: “32b Tôi đã thấy Thần
Khí (pneuma) tựa chim bồ câu từ trời
ngự xuống và ở lại trên Người (Đức Giê-su). 33 Phần tôi, tôi đã không biết Người.
Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước, Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy
Thần Khí (pneuma) xuống và ở lại trên
ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần (pneumati hagiôi).’ 34 Phần
tôi, tôi đã thấy và đã làm chứng rằng: Chính Người là Con Thiên Chúa.” Trong
hai câu 1,32-33, Gio-an nhắc đến việc Thiên Chúa là Đấng sai ông đến làm chứng
(1,6). Trong lời chứng, ông nói về Thần Khí (pneuma) và Thánh Thần (pneuma
to hagion), rồi xác nhận Đức Giê-su là Con Thiên Chúa (1,34).
- Ga 14,17: Thần Khí sự thật; 14,26:
Thánh Thần
Ở Ga 14, Đức Giê-su
đồng hoá “Đấng Pa-rác-lê” (paraklêtos)
với “Thần Khí sự thật” và “Thánh Thần”. Người hứa với các môn đệ ở
14,15-17: “15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy; 16
và chính Thầy sẽ can thiệp với Cha và Người sẽ ban cho anh em một
Đấng Pa-rác-lê khác (allon
paraklêton) để Người ở với anh em mãi mãi. 17 Thần Khí sự thật (pneuma tês alêtheias) là Đấng thế gian không thể đón
nhận, vì thế gian không thấy
cũng chẳng biết Người. Còn anh em, anh em biết Người, vì Người ở lại giữa anh em và Người sẽ ở trong anh
em.”
Trong đoạn văn
trên “Đấng Pa-rác-lê khác” (14,16) chính là Đấng Pa-rác-lê được nói
đến ở 14,26. (Xem bài viết: “Đấng Pa-rác-lê là ai?”). Đức
Giê-su đồng hoá “Đấng Pa-rác-lê” với “Thánh Thần” khi nói với các môn đệ ở 14,26: “Đấng
Pa-rác-lê (ho paraklêtos), Thánh Thần
(to pneuma to hagion), Đấng mà Cha sẽ
sai đến nhân danh Thầy. Đấng Pa-rác-lê sẽ
dạy anh em tất cả và sẽ làm cho anh em nhớ lại tất cả những gì [chính] Thầy đã
nói với anh em.” Như thế, bản văn dùng bốn tước hiệu để nói về một nhân vật:
Đấng Pa-rác-lê khác (allos paraklêtos), Đấng
Pa-rác-lê (ho paraklêtos), Thần Khí sự thật (pneuma tês alêtheias), Thánh Thần (pneuma to hagion).
2. Thần Khí hay tâm linh (4,24; 6,63)
Nhóm nghĩa thứ
hai của từ “pneuma” không rõ ràng, có
thể hiểu là “Thần Khí” (viết hoa) hay “thần khí” (viết thường). Trong các thủ
bản Hy-lạp Tân Ước cổ, lên đến thế kỷ II, trong đó bản văn được viết toàn bộ
bằng chữ hoa (PNEUMA). Từ thế kỷ IX,
mới xuất hiện các thủ bản Hy-lạp viết chữ thường (pneuma). Vì thế, có ba trường hợp trong Tin Mừng (4,24a.24b; 6,63a), có thể hiểu danh từ “pneuma” theo một trong hai nghĩa: Thần Khí
(viết hoa) là Thánh Thần hay thần khí (viết thường) theo nghĩa tâm linh, linh
thiêng. So sánh một số bản dịch dưới đây cho thấy lựa chọn cách hiểu khác nhau.
- Ga 4,24
Ở Ga 4,24 xuất
hiện 2 lần từ “pneuma” và có ba cách
dịch hai cụm từ: “THIÊN CHÚA LÀ THẦN KHÍ” (4,24a) và “THỜ PHƯỢNG TRONG THẦN
KHÍ” (4,24b) như sau: (a) danh từ “thần khí” viết thường trong cả hai cụm từ;
(b) danh từ “thần khí” viết hoa (Thần Khí) trong cụm từ thứ nhất và viết thường
(thần khí) trong cụm từ thứ hai; (c) danh từ “thần khí” viết hoa trong cả hai
cụm từ.
(a) Danh từ “thần
khí” viết thường trong cả hai cụm từ trong các bản dịch: - NPD/CGKPV, Ga
4,24: “Thiên Chúa là thần khí (pneuma), và những kẻ thờ phượng
Người phải thờ phượng trong thần khí (pneumati) và sự thật.” - BJ, Jn 4,24: “Dieu est esprit (pneuma), et ceux qui adorent, c’est dans l’esprit (pneumati) et la vérité qu’ils doivent adorer.” - TOB, Jn
4,24: “Dieu est esprit (pneuma), et c’est pourquoi ceux qui l’adorent,
doivent adorer en esprit (pneumati) et en vérité.” - RSV-SCE, Jn 4:24: “God is spirit (pneuma), and those who worship him must worship in
spirit (pneumati) and truth.”
(b) Danh từ “thần khí”
viết hoa (Thần Khí) trong cụm từ thứ nhất và viết thường (thần khí) trong cụm
từ thứ hai trong các bản dịch: - Giu-se Lê Minh Thông, Ga 4,24: “Thiên Chúa là
Thần Khí (pneuma), và những kẻ
thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí (pneumati) và sự thật.” - NKJV, Jn 4:24: “God is Spirit (pneuma), and those who worship Him must worship in spirit (pneumati) and truth.”
(c) Danh từ “thần khí”
viết hoa cả hai cụm từ trong các bản dịch: - NAB-RE, Jn 4:24: “God is Spirit (pneuma), and those who worship him must worship in Spirit (pneumati) and truth.” - NOV, Jn 4,24: “Spiritus (pneuma) est Deus, et eos, qui adorant eum, in
Spiritu (pneumati) et veritate oportet adorare.”
- Ga 6,63a
Có 2 lần từ “pneuma” ở 6,63. Lần thứ nhất trong cụm
từ “THẦN KHÍ thì làm cho sống” (6,63a) có hai cách hiểu: “Thần Khí” (viết hoa)
hay “thần khí” (viết thường). Trong cụm từ thứ hai “Những lời chính Thầy (Đức
Giê-su) nói với anh em (các môn đệ) là thần khí” (6,63b), hầu hết các bản dịch
lựa chọn viết thường từ “thần khí” (pneuma).
Dưới đây là hai lựa chọn cách dịch cụm từ “THẦN KHÍ thì làm cho sống” (6,63a).
a) Ga 6,63a:
“Thần khí (viết thường) thì làm cho sống.” - NPD/CGKPV, Ga
6,63: “Thần khí (pneuma) mới
làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời
Thầy nói với anh em là thần khí (pneuma) và
là sự sống.” - Giu-se Lê Minh Thông, Ga 6,63: “Thần khí (pneuma) thì làm cho sống, xác thịt
chẳng có ích gì. Những lời chính Thầy nói với anh em là thần khí (pneuma) và là sự sống.” - BJ, Jn
6,63: “C’est l’esprit (pneuma) qui vivifie, la chair ne sert de
rien. Les paroles que je vous ai dites sont esprit (pneuma) et
elles sont vie.” - RSV-SCE, Jn 6:63: “It is the spirit (pneuma) that gives life, the flesh is of no avail; the words
that I have spoken to you are spirit (pneuma) and life.” - NAB-RE, Jn 6:63: “It is the spirit (pneuma) that gives life, while the flesh is of no avail. The words I have
spoken to you are spirit (pneuma) and life.”
b) Ga 6,63a:
“Thần Khí (viết hoa) làm cho sống.” - TOB, Jn 6,63: “C’est l’Esprit (pneuma) qui
vivifie, la chair ne sert de rien. Les paroles que je vous ai dites sont
esprit (pneuma) et vie.” - NASB, Jn 6:63: “It
is the Spirit (pneuma) who gives life; the
flesh profits nothing; the words that I have spoken to you are spirit (pneuma) and are life.” - NIV,
Jn 6:63: “The Spirit (pneuma) gives life; the
flesh counts for nothing. The words I have spoken to you are spirit (pneuma) and they are life.”
Tóm lại, nếu dịch “Thần Khí” (viết hoa) thì hiểu là Thánh Thần (nghĩa thứ
nhất của từ pneuma). Nếu dịch là
“thần khí” (viết thường) thì hiểu theo nghĩa “linh thiêng”, “tâm linh”, tức là
nghĩa thứ ba của từ “pneuma”.
3. Tâm linh, linh thiêng, thần khí (3,6; 4,23.24b; 6,63b)
Nghĩa thứ ba của
từ “pneuma” là linh thiêng, tâm linh,
xuất hiện 4 lần ở 3,6; 4,23.24b; 6,63b. Ở 3,6, có 2 lần từ “pneuma”, trong đó lần thứ nhất chỉ Thần
Khí (viết hoa), lần thứ hai có nghĩa tâm linh, linh thiêng. Đức Giê-su nói với
Ni-cô-đê-mô ở 3,6: “Điều gì sinh ra bởi xác thịt là xác thịt; và điều gì sinh
ra bởi Thần Khí (pneumatos) là thần
khí (pneuma).”
Ở 4,23-24,
xuất hiện 2 lần cụm từ “thờ phượng trong thần khí và sự thật” (4,23.24b),
phần lớn các bản dịch hiểu là “thần khí” (viết thường) theo nghĩa “tâm linh”.
Tuy nhiên, vẫn có một số bản dịch (NAB-RE, NOV) viết hoa từ “Thần Khí” như đã
trình bày. Đức Giê-su nói với người phụ nữ Sa-ma-ri ở 4,23-24: “23 Nhưng giờ đến
– và là bây giờ –, khi mà những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha
trong thần khí (pneumati) và sự thật.
Vì Cha tìm kiếm những kẻ thờ phượng Người như thế. 24 Thiên Chúa là Thần Khí (pneuma), và những kẻ thờ phượng Người
phải thờ phượng trong thần khí (pneumati)
và sự thật.”
Ở 6,63, có 2 lần
từ “pneuma”, Đức Giê-su nói với các
môn đệ ở 6,63: “Thần khí (pneuma)
thì làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì. Những lời chính Thầy nói với anh em
là thần khí (pneuma) và là sự sống.”
Từ “pneuma” lần thứ hai trong
cụm từ: “Những lời chính Thầy nói với anh em là thần khí (pneuma) và là sự sống” (6,63b), có nghĩa “tâm linh” (xem trích dẫn
6,63 của các bản dịch trên đây).
4. Tâm thần, tâm trí con người (11,33;
13,21)
Nghĩa thứ tư của “pneuma” là tâm thần, tâm trí con
người. Tin Mừng Gio-an dùng 2 lần (11,33; 13,21) theo nghĩa này để nói về tâm
trí, tâm thần Đức Giê-su. Trong câu chuyện La-da-rô (11,1-46), lúc Ma-ri-a và
những người Do Thái khóc thương La-da-rô đã chết, người thuật chuyện kể ở
11,33-35: “33 Khi Đức Giê-su thấy cô ấy khóc, và những người Do Thái đi với cô
ấy cũng khóc, Người thổn thức trong tâm trí (pneumati) và xao xuyến. 34 Người nói: ‘Các người đặt anh ấy
(La-da-rô) ở đâu?’ Họ nói với Người: ‘Thưa Thầy, hãy đến và hãy xem.’ 35 Đức
Giê-su khóc.”
Ở 13,21, từ “pneuma” chỉ tâm thần, tâm trí của Đức
Giê-su. Sau khi Người nói với các môn đệ về ý nghĩa việc rửa chân (13,12-20),
người thuật chuyện kể ở 13,21: “Nói những điều đó xong, Đức Giê-su xao xuyến trong tâm thần (pneumati). Người làm chứng và nói: ‘A-men, a-men, Thầy nói cho anh
em: Một người trong anh em
sẽ nộp Thầy.’”
5. Thần khí Đức Giê-su gợi về Thần Khí
Thiên Chúa (19,30)
Nghĩa thứ năm chỉ
xuất hiện 1 lần ở 19,30. Từ “pneuma”
ở đây có ẩn ý đặc biệt: thần khí Đức Giê-su gợi về Thần Khí Thiên Chúa (Thánh
Thần). Người thuật chuyện kể biến cố Đức Giê-su chết trên thập giá cách lạ lùng
ở 19,30: “Khi đã nếm giấm, Đức Giê-su nói: ‘Đã hoàn tất’ rồi Người gục đầu
xuống trao thần khí (pneuma).” Văn
chương Hy Lạp không dùng kiểu nói “trao thần khí” (paradiômi to pneuma) để mô tả việc tắt thở của người hấp hối, nên chi
tiết Đức Giê-su trút hơi thở cuối cùng cách lạ lùng như trên là có ẩn ý thần
học. Thật vậy, theo thần học Tin Mừng Gio-an, giờ chết của Đức Giê-su là giờ
Người được tôn vinh (12,23.28; 13,31-32). Khi chết treo trên thập giá là lúc
Đức Giê-su được giương cao trong vinh quang (12,31-32). Trong viễn cảnh này, biến
cố Đức Giê-su tắt thở trùng khớp với việc trao ban Thần Khí cho thế gian như Người đã hứa
ở 7,37-38.
Người thuật chuyện
kể ở 7,37-39: “37 Vào ngày cuối cùng, ngày
long trọng nhất của dịp lễ, Đức Giê-su đứng lên và lớn tiếng nói: ‘Nếu ai
khát hãy đến với Tôi và hãy uống. 38 Người tin vào Tôi, như Kinh Thánh đã
nói: Từ lòng người ấy sẽ tuôn chảy
những dòng nước sự sống.’ 39 Điều đó, Người nói về Thần Khí (pneumatos) mà những kẻ tin vào
Người sẽ lãnh nhận. Tuy nhiên, Thần Khí (pneuma)
chưa có, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh.” Câu “Thần Khí chưa có, vì Đức
Giê-su chưa được tôn vinh” (7,39b) gợi đến lúc Người chết trên thập giá, nghĩa
là lúc Người được tôn vinh.
Trước biến cố
thập giá, người tin chưa lãnh nhận Thần Khí (7,39a). Khi Đức Giê-su được tôn vinh
trên thập giá là lúc người tin sẽ lãnh nhận Thần Khí. Điểm thần học này diễn tả
qua câu: “Người (Đức Giê-su) trao thần khí (paredôken
pneuma)” (19,30b). Vậy từ “pneuma”
ở đây bao hàm cả hai nghĩa: (1) trao thần khí là trút hơi thở cuối cùng; (2) trao
thần khí là ban Thần Khí cho người tin. Việc trao ban Thần Khí sẽ minh nhiên sau
biến cố Phục Sinh. Chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra
với các môn đệ, “Người thổi hơi và nói với các ông: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần (pneuma hagion)’” (20,22b).
6. Gió (3,8a)
Nghĩa thứ sáu từ “pneuma” là nghĩa nguyên thuỷ của tiếng
Híp-ri “ruah”,
có nghĩa “hơi thở”, “khí”. Trong Tin Mừng Gio-an “pneuma” có nghĩa “gió” chỉ xuất
hiện một lần ở 3,8. Đức Giê-su mặc khải cho Ni-cô-đê-mô về những kẻ được sinh
ra bởi Thần Khí ở 3,8: “Gió (pneuma) muốn thổi ở đâu, ông nghe tiếng của nó, nhưng ông
không biết nó từ đâu đến và đi đâu. Mọi kẻ được sinh ra bởi Thần
Khí (pneumatos) thì cũng như vậy.” Hai lần danh từ “pneuma” trong câu này có hai nghĩa khác nhau: ở đầu câu có nghĩa là “gió” (3,8a) và ở cuối câu có
nghĩa là “Thần Khí” (3,8b).
Kết
luận
Tóm lại, 24 lần
từ “pneuma” xuất hiện trong Tin Mừng
thứ tư được xếp vào sáu nhóm nghĩa: (1) Pneuma
là Thần Khí (Thiên Chúa),
14 lần, trong đó, 8 lần là “Thần Khí”: 1,32.33; 3,5.6.8.34; 7,39a.39b; 3
lần là “Thánh Thần”: 1,33; 14,26; 20,22; và 3 lần là “Thần Khí sự
thật”: 14,17; 15,26; 16,13. (2) Pneuma
là Thần Khí (viết hoa) hay tâm linh (viết thường), 2 lần: 4,24a; 6,63a. (3) Pneuma có nghĩa tâm
linh, linh thiêng, thần khí, 4 lần: 3,6;
4,23.24b; 6,63b. (4) Pneuma chỉ tâm thần hay tâm
trí con người, 2 lần: 11,33; 13,21. (5)
Pneuma có hai nghĩa, 1 lần: 19,30; nghĩa
thứ nhất thần khí Đức Giê-su, gợi đến nghĩa thứ hai Thần Khí (Thánh Thần). (6) Pneuma là gió, diễn tả sự linh hoạt của người
được sinh ra bởi Thần Khí, 1 lần: 3,8a.
Bối cảnh văn chương trong bản văn cho phép xác định ý nghĩa của
từ ngữ. Những quan sát vắn tắt trên đây cho thấy sự phong phú về nghĩa của từ “pneuma” trong Tin Mừng Gio-an. Những
nghĩa này không xuất hiện trong các tự điển đại cương mà chỉ có trong các tự
điển Kinh Thánh, đặc biệt trong các sách chú giải Tin Mừng Gio-an. Xem phân tích
từ “pneuma” trong Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật trong Tin
Mừng thứ tư, tr. 142-149./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/07/cac-nghia-cua-tu-pneuma-than-khi-tam.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét