Bài viết tiếng Pháp: Jn
4,3-26. Topographie: Samarie, Mt. Garizim, puits de Jacob, Sychar.
Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 22 tháng 04 năm 2020.
Nội dung
I. Vùng đất Sa-ma-ri và thành
Sa-ma-ri
1. Ba miền Giu-đê, Sa-ma-ri, Ga-li-lê
2. Thành Sa-ma-ri (Xê-bát-tê)
II. Nơi chốn cuộc gặp gỡ và mặc
khải
1. Xy-kha (Sychar), Askar, Si-khem (Shechem)
2. Giếng Gia-cóp
3. Núi Gơ-ri-dim (Gerizim) và núi Ê-van (Ebal)
Kết luận
Thư mục
Dẫn nhập
Bài viết này bàn đến các tên riêng và địa danh trong Kinh Thánh cũng như
một số tên riêng và địa danh ngoài bản văn Kinh Thánh. Phiên âm tên riêng trong
Kinh Thánh theo NPD/CGKPV, Kinh Thánh, ấn bản 2011; một số tên riêng và địa
danh ngoài Kinh Thánh được viết theo tiếng Anh.
Trình thuật Đức Giê-su gặp gỡ và đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri (4,3-26) nói đến nhiều địa danh như
ba miền. Giu-đê, Sa-ma-ri và Ga-li-lê ở 4,3-4: “3 Người (Đức Giê-su) rời bỏ
Giu-đê và lại đi đến Ga-li-lê. 4 Nhưng Người phải băng qua Sa-ma-ri.” (Xem Bản văn Gio-an,Tin Mừng và Ba thư). Những địa danh này ở đâu? Nơi
Đức Giê-su gặp người phụ nữ Sa-ma-ri được mô tả ở 4,5-6a: “5 Vậy Người (Đức
Giê-su) đến một thành Sa-ma-ri, gọi là Xy-kha, gần thửa đất mà Gia-cóp đã cho
Giu-se, con của ông ấy. 6a Ở đó có giếng Gia-cóp.” Một địa danh khác được nhắc
tới ở cuối phần đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri. Chị ấy nói với Đức Giê-su ở
4,20: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng ở núi này; còn các ông, các ông nói rằng:
ở Giê-ru-sa-lem mới là nơi phải thờ phượng.” “Núi này” là núi nào? Đức Giê-su
gặp người phụ nữ Sa-ma-ri tại giếng Gia-cóp, gần chân núi Gơ-ri-dim. Trên núi
này đã từng có đền thờ của người Sa-ma-ri. Vì thế, “núi này” ở 4,20 là núi Gơ-ri-dim,
ở ngay trước mắt chị. Những địa danh trên được tìm hiểu qua hai mục: (I) vùng
đất Sa-ma-ri và thành Sa-ma-ri; (II) nơi chốn cuộc gặp gỡ và mặc khải.
I. Vùng đất Sa-ma-ri và
thành Sa-ma-ri
Phần này trình bày hai điểm: (1) ba miền
Giu-đê, Sa-ma-ri, Ga-li-lê; (2) thành Sa-ma-ri
(Xê-bát-tê).
1. Ba miền Giu-đê, Sa-ma-ri, Ga-li-lê
Bản đồ vùng đất Pa-lét-tin thời Đức Giê-su dưới đây giúp nhận dạng các
vùng đất Giu-đê, Sa-ma-ri và Ga-li-lê:
Vào thời Đức Giê-su, vùng đất Pa-lét-tin chia thành ba miền: Miền Nam là
Giu-đê, miền Trung là Sa-ma-ri và miền Bắc là Ga-li-lê (xem bản đồ). Khi Đức
Giê-su thi hành sứ vụ, miền Giu-đê và Sa-ma-ri là một tỉnh của đế quốc Rô-ma.
Miền Ga-li-lê và Pe-rê thuộc quyền tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa (năm 4 TCN – 39
SCN). Vùng Tra-khô-nít (Gaulanitis) thuộc quyền tiểu vương Hê-rô-đê Phi-líp-phê
II (năm 4 TCN – 34 SCN). Lãnh thổ Thập Tỉnh (Decapolis), tiếng Hy-lạp có nghĩa
là mười (deca) thành (polis). Decapolis là nhóm 10 thành ở về biên giới phía
Đông của đế quốc Rô-ma, tiếp nối vùng đất Giu-đê và Xy-ri. Quy chế chính trị
của Thập Tỉnh vào thời đó là tự trị (autonomous
cities).
2. Thành Sa-ma-ri (Xê-bát-tê)
Người thuật chuyện cho độc giả biết ở 4,3-4: “3 Người (Đức Giê-su) rời
bỏ Giu-đê và lại đi đến Ga-li-lê. 4 Nhưng Người phải băng qua Sa-ma-ri.” Trong
câu này, tên gọi “Sa-ma-ri” không phải là thành Sa-ma-ri mà là vùng đất Sa-ma-ri
(miền Trung). Đã từng có một thành Sa-ma-ri hùng mạnh, là thủ đô của Vương quốc
Ít-ra-en. Thủ đô Sa-ma-ri do vua Om-ri (khoảng 885-874 TCN) thiết lập và kéo
dài cho đến khi thành Sa-ma-ri bị Sargon II chiếm vào năm 721 TCN và vương quốc
Ít-ra-en bị sụp đổ.
Đến thời đế quốc Hy-lạp, thành Sa-ma-ri bị Alexander
đại đế đánh chiếm năm 331 TCN. Đến khoảng năm 108 TCN, thành Sa-ma-ri lại bị
John Hyrcan tàn phá (cf. Josephus Ant. 13:275-281). Dưới thời đế quốc Rô-ma,
Pompey xây dựng lại thành Sa-ma-ri khoảng năm 63 TCN. Đến năm 27 TCN, hoàng đế
Augustus Caesar cho vua Hê-rô-đê Cả (Herod the Great) thành này, vua Hê-rô-đê
Cả mở rộng và xây dựng lại thành Sa-ma-ri rồi đặt lại tên thành là Xê-bát-tê (Sebaste), tiếng Hy-lạp có nghĩa là “Augustus”, để tôn vinh hoàng đế.
Vì thế, vị trí thành Xê-bát-tê trong bản đồ trên đây là thành Sa-ma-ri trong bản đồ Sa-ma-ri cổ dưới
đây.
Thành Sa-ma-ri (Xê-bát-tê)
để lại nhiều di tích khảo cổ quan trọng. Những khai quật cho thấy vị trí thành
Sa-ma-ri đã tìm thấy dấu vết của sáu nền văn hoá, trải qua sáu thời đại khác
nhau (Canaanite, Israelite, Hellenistic, Herodian, Roman, Byzantine).
II. Nơi chốn cuộc gặp gỡ và
mặc khải
Đức Giê-su phải băng qua Sa-ma-ri (4,4), nhưng đâu là nơi Đức Giê-su
gặp gỡ người phụ nữ Sa-ma-ri? Phần này trình bày ba điểm: (1) Xy-kha (Sychar), Askar, Si-khem (Shechem); (2)
giếng Gia-cóp; (3) núi Gơ-ri-dim (Gerizim) và núi Ê-van (Ebal).
1. Xy-kha (Sychar), Askar, Si-khem (Shechem)
Ở giữa miền đất Sa-ma-ri (xem bản đồ dưới đây), có ghi các địa danh: Askar,
Shechem (Si-khem), Nablus, núi Ebal (Ê-van) và núi Gerizim (Gơ-ri-dim), vậy
thành Xy-kha và giếng Gia-cóp ở đâu?
Bản đồ vùng Samari cổ
Bản đồ từ History Online
Thành Xy-kha được người thuật chuyện mô tả ở Ga 4,5-6a: “5 Vậy Người (Đức
Giê-su) đến một thành Sa-ma-ri, gọi là Xy-kha, gần thửa đất mà Gia-cóp đã cho
Giu-se, con của ông ấy. 6a Ở đó có giếng Gia-cóp.” Thánh Giê-rô-ni-mô đồng hoá
thành Xy-kha với thành Si-khem. Người ta cũng tìm thấy trong thủ bản Syriac
thay vì viết Xy-kha thì viết Si-khem, nhưng có thể người sao chép bản văn (copyist)
đã sửa Xy-kha thành Si-khem. Đa số tuyệt đối các thủ bản viết Xy-kha. Câu hỏi đặt
ra là thành Xy-kha ở đâu?
Mô tả ở Ga 4,5-6a trên đây gợi về trình thuật trong sách Sáng thế ở St
33,18-20: “18 Khi ở Pát-đan A-ram về, ông Gia-cóp đến thành
Si-khem, trong đất Ca-na-an, bình an vô sự, và ông cắm trại đối diện với thành.
19 Ông tậu của con cái ông Kha-mo, cha của Si-khem, một
thửa đất, nơi ông đã căng lều, với giá một trăm đồng bạc. 20
Tại đây, ông dựng một bàn thờ mà ông gọi là ‘Ên, Thiên Chúa của Ít-ra-en.’” Đoạn
văn nói về Si-khem chứ không nói đến thành Xy-kha. Trong toàn bộ Kinh Thánh,
địa danh Xy-kha chỉ được nói đến một lần ở Ga 4,5. Vì thế, một số tác giả muốn
đồng hoá thành Xy-kha với thành cổ Si-khem. Tuy nhiên, đa số các nhà khảo cổ
ngày nay đồng hoá thành Xy-kha với Askar (xem bản đồ trên), một làng nhỏ hiện
nay ở gần Si-khem.
Theo Tin Mừng, hai tiêu chuẩn để xác định thành Xy-kha: (1) gần thửa
đất mà Gia-cóp đã cho Giu-se (4,5b) và (2) không xa giếng Gia-cóp (4,6a). Một số
nhà chuyên môn đồng hoá Xy-kha với thành cổ Si-khem, vì kết quả khảo cổ cho thấy
thửa đất mà Gia-cóp đã cho Giu-se ở bên cạnh những di tích thành Si-khem cổ,
thành này gần với khu vực ngày nay gọi là Balata (xem B.E. Schein, Following the Way, 1980, p. 205).
Tuy nhiên, nhiều nhà chuyên môn cho rằng: Thành Xy-kha nói đến trong Ga
4,5 là làng Askar. R. Schnackenburg viết: “Địa danh mà tác giả Tin Mừng gọi là Xy-kha (hay Sichar) được đa số đồng hoá với làng Askar ngày nay, đó là một ngôi
làng nhỏ cách giếng Gia-cóp hơn nửa dặm (hơn 800 mét) theo hướng Đông - Bắc.” (R. Schnackenburg, The Gospel, vol. I, p.
423). Ga 4,5 gọi Xy-kha bằng từ Hy-lạp “polis” có nghĩa là “thành” hay ít ra
cũng là một “thị trấn”. Những khảo cổ ở khu vực Balata ngày nay cho thấy vết tích
thành Si-khem cổ, nhưng không biết rõ khi nào ngôi làng mới được thành lập. Bởi
vì thành Si-khem cổ bị John Hyrcan tàn phá năm 128 TCN. Thành phố mới Flavia
Neapolis (cách thành Si-khem cổ khoảng 2,5 km) chưa xuất hiện vào thời Đức
Giê-su (30-33 SCN). Bởi vì Flavia Neapolis được hoàng đế Vespasian xây dựng năm
72 SCN. Ngày nay thành phố này có tên gọi Nablus.
Trên bản đồ dưới đây cho thấy khoảng cách giữa thành Xy-kha và giếng
Gia-cóp:
Hình từ http://bibleatlas.org/sychar.htm
Làng Askar ngày nay gần chân núi Ê-van, phía Đông – Bắc giếng Gia-cóp.
Mảnh đất gần làng Askar được cho là thửa đất mà Gia-cóp đã cho Giu-se (Ga 4,5b).
Cho dù làng Askar xuất hiện vào thời người Ả rập chiếm vùng đất Pa-lét-tin, nhưng
có thể làng Askar được xây dựng trên thành cổ Xy-kha.
Tóm lại, dựa trên kết quả khảo cổ, địa danh thành Xy-kha có thể định vị
tại làng Askar ngày nay. Xy-kha là một thị trấn của người Sa-ma-ri, dưới chân
núi Ê-van gần giếng Gia-cóp. Có thể đã có một cộng đoàn Kitô hữu ở Xy-kha vào
lúc Tin Mừng Gio-an được biên soạn cuối thế kỷ I SCN.
2. Giếng Gia-cóp
“Giếng Gia-cóp vẫn còn đó cho đến ngày nay, nơi đã được khách hành
hương trước đây nói tới. Giếng này chắc chắn là xác thực cho dù không được nói
đến trong Cựu Ước.” (R. Schnackenburg, The Gospel, vol. I, p.
424).
Đây là hình chụp giếng Gia-cóp vào năm 1894:
Hình từ http://hitch.south.cx
Giám mục John H. Vincent giải thích tấm hình này trong “Earthly
Footsteps of the Man of Galilee”, khi viếng thăm giếng năm 1894: “Giếng Gia-cóp
hiện nay thuộc về một nhà thờ Hy-lạp (…). Giếng này sâu 22,8 mét (75 feet), bề
rộng là 2,30 mét (7 feet, 6 inches). Đường kính mặt bằng giếng là 5,3 mét (17,5
feet). Một tầng hầm mái vòm bao phủ trên giếng, có chiều dài 6 mét (20 feet),
chiều rộng 3 mét (10 feet) và chiều cao 1,8 mét (6 feet). Những tảng đá cẩm
thạch bị vỡ ở phía trước tấm hình thuộc về một số nhà thờ cổ xưa.” (http://hitch.south.cx/biblesidenotes-e20%20Jacobs%20Well.htm).
Hội Thánh Chính Thống Hy-lạp đã mua khu đất đổ nát của nhà thờ trên và đã
khởi công xây dựng một nhà thờ mới từ trước Thế Chiến thứ nhất, nhưng khi mới
chỉ xây được một phần của những bức tường phía ngoài thì đã phải ngưng vì chiến
tranh.
Dưới đây là tấm hình chụp năm 1999. Công việc xây dựng nhà thờ đang được
xúc tiến:
Hình chụp tháng 11/1999, từ http://welcometohosanna.com
Sau hơn 80 năm dang dở, nhà thờ đã được hoàn tất năm 2007. Đây là nhà
thờ , thuộc Hội Thánh Chính Thống Giáo Hy-lạp:
Hình từ http://welcometohosanna.com
Hình của ssiatravani
Bên trong nhà thờ thánh
Hình chụp năm 2009 của Ferrell Jenkins
Đây là giếng Giacóp ở dưới tầng hầm (crypt) nhà thờ:
Hình chụp từ post card
Hình của Lê Minh Thông, 01/2016
Đây là miệng giếng Giacóp:
Hình của Lê Minh Thông, 01/2016
Giếng thì không thể di chuyển đi nơi khác được, nên có thể xác định đây
là nơi Đức Giê-su vất vả vì đi đường nên ngồi xuống bờ giếng. Nơi Người đã gặp
gỡ và mặc khải cho người phụ nữ Sa-ma-ri biết Người là ai. Đúng như người phụ
nữ đã nói với Đức Giê-su: “Thưa Ông, Ông không có gầu và giếng lại sâu…” (Ga 4,11).
Giếng sâu hơn 21 mét. Ngày nay, vẫn có nước mát và có thể uống được (P. Walker, In the Steps of Jesus, 2006, p. 87-88). Vào thời Đức Giê-su,
giếng có thể sâu hơn. Các truyền thống Do Thái giáo, Sa-ma-ri, Ki-tô giáo và Hồi
giáo đều liên kết giếng này với tổ phụ Gia-cóp.
3. Núi Gơ-ri-dim (Gerizim) và núi Ê-van (Ebal)
Núi Gơ-ri-dim bên phải và núi Ê-van bên trái trong hình dưới đây:
Núi Gơ-ri-dim thuộc vùng đồi núi Sa-ma-ri, núi này cao khoảng 868 mét
so với mực nước biển Địa Trung Hải và cao 244 mét tính từ chân núi. Núi Ê-van bên
cạnh, cao 938 mét so với mực nước biển Địa Trung Hải và cao 366 mét tính từ
chân núi (xem chi tiết tại http://bibleatlas.org và
http://classic.net.bible.org). Giữa hai núi Gơ-ri-dim và Ê-van là vùng đất thành
Si-khem
cổ (ngày nay là thành Nablus). Xy-kha (Askar) ở chân núi Ê-van,
phía Nam Xy-kha là giếng Gia-cóp theo hướng núi Gơ-ri-dim.
Theo sử gia Josephus, Sanballat là thủ lãnh người Sa-ma-ri đã xây một
đền thờ trên núi Gơ-ri-dim, và thiết lập hàng tư tế đối lập với đền thờ và tư
tế ở Giê-ru-sa-lem, (xem Josephus Ant. 11:8,2-4). Căng thẳng về tôn giáo
giữa người Do Thái và người Sa-ma-ri đã dẫn đến biến cố John Hyrcan phá huỷ đền
thờ trên núi Gơ-ri-dim vào cuối thế kỷ II TCN. Trước đó đền thờ Gơ-ri-dim đã tồn
tại 200 năm. Vào thời kỳ Ki-tô giáo được đế quốc Rô-ma nhìn nhận và phát triển
trên toàn đế quốc, một nhà thờ Ki-tô giáo hình bát giác (octagonal church) được
xây dựng trên núi Gơ-ri-dim vào năm 475 SCN. Sau đó nhà thờ này bị người Hồi
Giáo phá huỷ vào thế kỷ VIII, (xem
P. Walker, In the Steps of Jesus, 2006, p. 89). Đây là di tích nhà thờ Kitô giáo trên núi Gơ-ri-dim ngày nay:
Hình của Ron Peled
Hình từ Illustrated Dictionary
Vào thời Giô-suê núi Gơ-ri-dim và núi Ê-van là nơi ông đọc những lời
chúc phúc và lời nguyền rủa trong sách Luật cho dân nghe. Sách Giô-suê kể ở
Gs 8,30-35: “30 Bấy giờ, ông Giô-suê dựng bàn thờ kính ĐỨC
CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, trên núi Ê-van, 31 theo lệnh
ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, đã truyền
cho con cái Ít-ra-en, như đã chép trong Sách Luật Mô-sê: đó là một
bàn thờ bằng đá nguyên vẹn, chưa có đồ sắt chạm tới. Trên đó, người ta dâng lễ
toàn thiêu kính ĐỨC CHÚA và dâng lễ kỳ
an. 32 Ông Giô-suê cho khắc bản sao Luật Mô-sê trên những tảng đá; ông Mô-sê đã
viết Luật đó trước mặt con cái Ít-ra-en. 33 Toàn thể Ít-ra-en, các
bậc kỳ mục, kinh sư và thẩm phán đều đứng hai bên Hòm Bia, đối diện với các tư
tế Lê-vi khiêng Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA,
người ngoại kiều cũng như người bản xứ, một nửa đứng trước núi Gơ-ri-dim, một
nửa đứng trước núi Ê-van, để theo lệnh ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, dân Ít-ra-en được chúc phúc trước. 34 Sau đó,
ông Giô-suê đọc mọi lời của Lề Luật, –những lời chúc phúc và những
lời nguyền rủa–, theo như mọi điều đã ghi trong Sách Luật. 35 Không có lời
nào ông Mô-sê đã truyền viết ra, mà ông Giô-suê lại không đọc trước mặt
toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, gồm cả đàn bà, trẻ con và ngoại kiều cùng đi
chung với họ.”
Vào thời Đức Giê-su, núi Gơ-ri-dim gần giếng Gia-cóp, là nơi Người gặp
gỡ người phụ nữ Sa-ma-ri. Núi Gơ-ri-dim chính là “núi này” trong lời người phụ
nữ nói với Đức Giê-su ở Ga 4,20: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng ở núi
này…”
Kết luận
Bối cảnh lịch sử đoạn văn Ga 4,3-26 liên quan đến một số địa danh ở Đất
Thánh: các vùng đất Giu-đê, Sa-ma-ri, Ga-li-lê, thành Xy-kha, giếng Gia-cóp, “núi
này” (núi Gơ-ri-dim). Câu chuyện Đức Giê-su ở Sa-ma-ri kéo dài đến câu 4,42, trình
bày hai cuộc gặp gỡ: (1) Đức Giê-su đối
thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri (4,7-26); (2) Người ở lại với dân thành Xy-kha hai
ngày (4,37-42). Một số thông tin về nơi chốn trong dòng lịch sử, từ Cựu Ước đến
Tân Ước và cho đến ngày nay, giúp độc giả hiểu rõ hơn thông điệp của câu
chuyện: “ở đâu” và “bằng cách nào” Đức Giê-su đã thực hiện sứ vụ nơi những người
Sa-ma-ri.
Thời đó, Sa-ma-ri là vùng đất ngoài lãnh thổ Do Thái giáo, người Sa-ma-ri
bị người Do Thái xem như là người ngoại. Đối thoại giữa Đức Giê-su và người phụ
nữ Sa-ma-ri xảy ra với nhiều điểm khác biệt: về niềm tin (Do Thái – Sa-ma-ri), về
phái tính (nam – nữ), về nơi thờ phượng (Giê-ru-sa-lem – Gơ-ri-dim), nhưng mặc
khải của Đức Giê-su đã giải thoát dân thành Xy-kha khỏi tất cả những rào cản
trên nhờ sự thờ phượng đích thực. Trước hết sự thờ phượng này không lệ thuộc nơi
chốn như Người nói với người phụ nữ ở 4,21: “Hãy tin Tôi, giờ đến, không phải ở
trên núi này cũng chẳng phải ở Giê-ru-sa-lem, các người sẽ thờ phượng Cha”; rồi
Người cho biết ở 4,23a: “Nhưng giờ đến – và là bây giờ –, khi mà những người
thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật.”
Việc thờ phượng dựa trên nơi chốn, vừa bị giới hạn trong không gian và
thời gian, vừa có nguy cơ dẫn đến tranh chấp, xung đột. Sự thờ phượng đích thực
không lệ thuộc nơi chốn nhưng đặt nền tảng trên cách thức: “thờ phượng trong
Thần Khí và sự thật”. Nói cách khác, người Ki-tô hữu hiện diện bất cứ ở đâu,
thì ở đó là nơi thờ phượng đích thực. Điểm độc đáo là Đức Giê-su làm cho cả thế
giới thành nơi thờ phượng đích thực.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri diễn ra ở một nơi
cụ thể. Nhưng trình thuật mời gọi độc giả sống trình thuật này. Nghĩa là làm
cho những cuộc gặp gỡ hằng ngày của độc giả đi theo kiểu gặp gỡ bên bờ giếng
Gia-cóp năm xưa, đó là cuộc gặp gỡ có khả năng giải thoát con người khỏi mọi
hình thức ngăn cách (niềm tin, giới tính, nơi thờ phượng) và cùng nhau nhận ra
Đức Giê-su là Đấng cứu độ thế gian (4,42)./.
Thư mục
Keener, Craig S., The Gospel of John. A Commentary, vol. I and II, Peabody (MA), Hendrickson
Publishers, 2003, 1636 p.
Revised Standard Version - Second Catholic
Edition, 2006 (RSV-SCE).
Schein, Bruce E., Following the Way, the setting of John’s Gospel, Minneapolis
(MN), Augsburg Publishing House, 1980.
Schnackenburg, Rudolf, The
Gospel According to St. John, vol. I: Introduction
and Commentary on Chapter 1–4, New York, The Crossroad Publishing Company,
(1965), 1987, 638 p. (Orig. Das Johannesevangelium, 1965).
Walker, Peter, In the Steps of Jesus, an Illustrated Guide to the Places of the
Holy Land, Oxford, Lion Hudson, 2006.
Wigoder, Geoffrey,
(Ed.), The Illustrated Dictionary & Concordance of the Bible, New
York (NY), Sterling Publishing, 2005.
Tài liệu Internet:
Bible Encyclopedia: http://christiananswers.net/dictionary/
Bible History: http://www.bible-history.com/maps/
Bible Places: http://bibleplaces.com/
Bible Study Tools: http://www.biblestudytools.com/
Biblos: http://biblos.com/
Catholic Encyclopedia: http://www.newadvent.org/cathen/
Christian Answers: http://christiananswers.net/
Holy Land Photos: http://www.holylandphotos.org/
Life in the Holy Land: http://www.lifeintheholyland.com/
NET BIBLE: http://classic.net.bible.org/home.php
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/09/noi-chon-trong-ga-41-43-samari-sychar.html
Cha Thông kính mến,
Trả lờiXóaCon đã đọc bài chia sẻ của cha, bài viết rất hay, bố cục rõ ràng và nhiều ý nghĩa kèm thêm những hình ảnh minh hoạ. Con cũng cảm ơn Chúa với cha về những hồng ân Chúa đã ban cho cha cách riêng. Con tin chắc rằng, với phương pháp trình bày này sẽ giúp cho nhiều người hiểu mỗi ngày càng sâu sắc hơn Tin Mừng của Chúa.
Cầu chúc cha luôn bình an, mạnh khoẻ và tràn đầy ơn Chúa để cha luôn là nhà truyền giáo bằng chính sự hiểu biết của mình và nhiều người sẽ đón nhận ơn Đức Tin.
Sr. Nghiên OP.
Thiên Chúa là tốt lành ban hồng ân của Ngài cho cha Thông, ngày như mọi ngày.
Trả lờiXóaCON KÍNH CHÀO CHA. ĐỌC BÀI VIẾT NÀY CON THẤY RẤT NGẠC NHIÊN. SỰ NGẠC NHIÊN NẰM Ở PHẦN KẾT LUẬN. THOẠT ĐẦU, NGƯỜI ĐỌC CÓ THỂ THẤY HƠI "CHÁN CHÁN" VÌ TOÀN NÓI CHUYỆN "CỔ VÀ KHÔNG THẤY ẢNH HƯỞNG ĐẾN NIỀM TIN". TUY NHIÊN, CÁI KẾT LÀM NGƯỜI ĐỌC NGỠ NGÀNG VÌ Ý NGHĨA CỦA NHỮNG PHÂN TÍCH TRÊN RẤT TUYỆT VỜI. SỰ THỜ PHƯỢNG KHÔNG CÒN PHỤ THUỘC VÀO NƠI CHỐN NỮA, MỌI NƠI ĐỀU LÀ NƠI THỜ PHƯỢNG KHI ĐẶT MÌNH TRONG SỰ THẬT VÀ THẦN KHÍ. NÓI CHO CÙNG, BÀI VIẾT TUYỆT QUÁ. CON CẢM ƠN CHA.
Trả lờiXóa