Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 12 tháng 04 năm 2020.
Nội dung
I. Bản văn Ga 20,1-10
II. Phân tích
1. Ai Thấy?
2. Thấy gì?
3. Tin gì?
Kết Luận
Dẫn nhập
Trình thuật Ga 20,1-10 kể về hai môn đệ, Phê-rô
và môn đệ Đức Giê-su thương mến, ra mộ Đức Giê-su vào sáng sớm ngày thứ nhất trong
tuần. Cuối trình thuật, người thuật chuyện cho biết ở Ga 20,8: “Bấy giờ người môn đệ khác cũng đi vào –
người đã tới mộ trước tiên –, ông ấy
đã thấy và đã tin.”
Bài viết tìm hiểu câu “ông ấy đã thấy và đã tin”
qua hai mục: (1) bản văn Ga 20,1-10; (II) phân tích ba ý: ai thấy, thấy gì, tin
gì.
I. Bản văn Ga 20,1-10
Theo Tin Mừng Gio-an, đoạn văn 20,1-10 mở đầu
trình thuật Phục Sinh. Người thuật chuyện kể ở Ga 20,1-10: “1 Vào ngày thứ nhất
trong tuần, Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ lúc sáng sớm, khi trời còn tối, bà thấy
tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ. 2 Bà liền chạy đến với Si-môn Phê-rô và người môn
đệ khác – người Đức Giê-su thương mến
–, bà nói với các ông: ‘Người ta đã
lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.’ 3 Vậy Phê-rô và
người môn đệ khác đi ra và họ đi đến mộ. 4 Cả hai ông cùng chạy, người môn đệ
khác nhanh hơn Phê-rô, chạy trước và đã đến mộ trước tiên. 5 Cúi xuống nhìn, ông ấy thấy những băng vải còn để đó nhưng không đi
vào. 6 Si-môn Phê-rô theo sau ông ấy cũng đến nơi, đi vào trong mộ và thấy
những băng vải còn để đó, 7 và khăn che đầu của Người không để với những băng
vải, nhưng cuốn lại để riêng ra một nơi. 8 Bấy giờ người môn đệ khác cũng đi
vào – người đã tới mộ trước tiên –, ông ấy đã thấy và đã tin. 9 Thực ra, các
ông chưa hiểu theo Kinh Thánh là Người phải trỗi dậy từ giữa những kẻ chết. 10 Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.” (Xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư).
Đoạn văn 20,1-10 nói về ba nhân vật:
Ma-ri-a Mác-đa-la, Si-môn Phê-rô và môn đệ Đức Giê-su thương mến. Nhân vật Ma-ri-a
Mác-đa-la được đề cao vì chị là người đầu tiên ra mộ Đức Giê-su và là người báo
tin cho hai môn đệ biết: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết
họ để Người ở đâu” (20,2b). Tuy đây là điều chị nghĩ chứ không phải là điều chị
thấy: “tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ” (20,1c) nhưng chị là người duy nhất lên tiếng
trong trình thuật, đặc biệt chị thấy Đức Giê-su Phục Sinh (20,11-18) trước các
môn đệ, xem bài viết: “Ga
20,1-2. Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ lúc sáng sớm, khi trời còn tối, để làm gì?”
Trình thuật hai môn đệ đi ra mộ được kể lại ở 20,3-9, trong đó các nhân vật không
nói lời nào. Câu chuyện được viết ra cho độc giả và kết thúc cách lạ lùng: một đàng
là “ông
ấy đã thấy và đã tin”
(20,8b) một đàng thì “các ông chưa hiểu”
(20,9a). Phần phân tích sau đây giúp hiểu hai điều xem ra mâu thuẫn này.
II. Phân tích
Để hiểu ý nghĩa và liên hệ giữa hai câu 20,8 và
20,9 cần trả lời ba câu hỏi liên quan đến câu 20,8b: ai thấy, thấy gì và tin gì?
1. Ai Thấy?
Chủ từ của động từ “thấy” và “tin” ở 20,8b được
tìm hiểu qua hai điểm: (1) môn đệ Đức Giê-su “thương mến” và
“yêu mến”; (2) môn
đệ Đức Giê-su yêu mến có phải là tông đồ Gio-an không?
(1) Trong mạch văn, người đã thấy ở 20,8b
là “môn đệ Đức Giê-su thương mến”. Gọi là “thương mến” vì bản văn dùng động từ “phileô”
có nghĩa “thương mến” trong tình bạn, vì động từ “phileô” cùng gốc với
danh từ “philos” (bạn hữu). Trong năm đoạn văn nói về môn đệ này trong Tin
Mừng, chỉ có một lần dùng động từ “phileô” ở 20,2, còn bốn lần khác dùng
động từ “agapaô” (yêu mến), dịch là “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” (13,23;
19,26; 21,7.20). Tuy chỉ xuất hiện 1 lần động từ “phileô” nhưng cho thấy
tình yêu Đức Giê-su dành cho môn đệ này diễn tả bằng hai động từ “agapaô”
(yêu mến), “phileô” (thương mến). Động từ thứ hai gợi về đề tài “bạn hữu” (philos) như
Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,13-15: “13 Không ai có tình yêu cao cả hơn người
đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu (philôn) của mình. 14 Anh em là bạn
hữu (philoi) của Thầy, nếu anh em làm những điều Thầy truyền dạy anh em.
15 Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết điều chủ mình làm. Nhưng
Thầy gọi anh em là bạn hữu (philous), vì tất cả những gì Thầy nghe nơi
Cha của Thầy, Thầy đã làm cho anh em biết.” Thông thường gọi là “môn đệ Đức
Giê-su yêu mến”, nhưng đừng quên 1 lần “thương mến” (phileô) ở 20,2, nối
kết với đề tài thần học quan trọng và trở thành “bạn hữu” (philos) của Đức
Giê-su trong Tin Mừng.
(2) Môn đệ Đức Giê-su yêu mến có phải là tông
đồ Gio-an không? Truyền thống đồng hóa môn đệ Đức Giê-su yêu mến với tông đồ
Gio-an. Nhưng thực tế không đơn giản. Trong Tin Mừng Nhất
Lãm, tông đồ Gio-an thuộc nhóm ba môn đệ thân tín của Đức Giê-su: Phê-rô,
Gio-an và Gia-cô-bê. Tông đồ Gio-an, cũng như các môn đệ khác, thường là không
hiểu Đức Giê-su. Thật vậy khi Gio-an và Gia-cô-bê xin được ngồi bên hữu và bên
tả, Đức Giê-su nói: “Các anh không biết các anh xin gì” (Mc 10,38a). Khi những
người Sa-ma-ri không tiếp đón Thầy trò, Gia-cô-bê và Gio-an nói: “Thưa Thầy, Thầy
có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Đức Giê-su
đã quay lại quở mắng các ông (Lc 9,54-55). Ở vườn Ghết-sê-ma-ni, ba môn đệ thân
tín ngủ khi Thầy đang hãi hùng xao xuyến (Mc 14,32-42). Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Phê-rô
đóng vai trò tông đồ trưởng và nổi bật hơn tông đồ Gio-an.
Còn trong Tin Mừng thứ tư, môn đệ Đức Giê-su yêu mến nổi bật hơn Phê rô
và các môn đệ khác về nhiều khía cạnh. Môn đệ này xuất hiện lần đầu tiên trong
bữa tiệc ly (Ga 13,1-32). Phê-rô phải nhờ môn đệ này hỏi Đức Giê-su xem ai là
người sẽ nộp Thầy (Ga 13,23-24). Môn đệ này có vị trí gần Đức Giê-su hơn Phê-rô
và hiểu Đức Giê-su hơn Phê-rô. Trong biến cố Thương Khó, các môn đệ khác sợ sệt
bỏ chạy, thì môn đệ Đức Giê-su yêu mến đứng dưới chân thập giá và được Đức
Giê-su trao phó chăm sóc Mẹ của Người (Ga 19,26-27). Trong trình thuật ngôi mộ
trống (Ga 20,1-10), môn đệ này đã thấy và đã tin, còn lòng tin của Phê-rô không
được nói đến. Khi Đấng Phục Sinh hiện ra trên bờ biển hồ Ti-bê-ri-a (Ga
21,1-14), người môn đệ này là người đầu tiên nhận ra Đức Giê-su. Như thế, môn
đệ Đức Giê-su yêu mến trổi vượt hơn Phê-rô và các môn đệ khác về ba phương
diện: (1) về vị trí, ông ở bên cạnh Đức Giê-su trong bữa tiệc ly (Ga 13,23); (2)
về lòng tin, ông đã thấy và đã tin trước ngôi mộ trống (Ga 20,8); (3) về tương
quan với Thầy, ông nhận ra Thầy trước tất cả các môn đệ khác (Ga 21,7).
Việc môn đệ Đức Giê-su yêu mến thường hiện diện với Phê-rô trong Tin
Mừng thứ tư không đủ để đồng hóa người môn đệ này với tông đồ Gio-an. Với sự thân
tín đặc biệt và được trình bày cách lạ lùng trong Tin Mừng thứ tư, môn đệ Đức
Giê-su yêu mến là một nhân vật lịch sử đã trở thành nhân vật biểu tượng, trở thành
môn đệ lý tưởng và mẫu mực cho người tin qua mọi thời đại. (Xem bài viết: “Tông Đồ Gio-an và môn đệ Đức
Giê-su yêu mến.”)
Đoạn Tin Mừng Ga 20,1-10 cho biết thế nào là “thấy” và “tin”. Môn đệ Đức
Giê-su thương mến không vào mồ trước, vì tôn trọng Phê-rô là trưởng Nhóm Mười
Hai; nhưng mạch văn cho thấy, ông trổi vượt hơn Phê-rô về ba khía cạnh: (1) ông
chạy trước Phê-rô để tới mộ trước, cho thấy sự gắn bó với Thầy; (2) ông thấy
những băng vải trong mộ trước Phê-rô; (3) hành động “thấy” của môn đệ này có
hiệu lực hơn Phê-rô: những gì Phê-rô thấy chỉ có tính cách thông tin, còn những
gì môn đệ này thấy đã dẫn tới tin: “ông đã thấy và đã tin” (20,8).
2. Thấy gì?
Hai động từ “thấy” và “tin” không có bổ túc từ nên có thể hiểu theo
nghĩa rộng. Những điều môn đệ này thấy không chỉ là thấy những băng vải như đã
kể, mà còn thấy ngôi mộ trống rỗng, thấy Đức Giê-su không còn đó. Xa hơn, gợi
đến những gì ông đã thấy khi đứng dưới chân thập giá. Tuy nhiên, ở đây không
phải là “thấy” bình thường mà là thấy đúng theo ý Thiên Chúa. Nghĩa là “thấy”
và “tin” gắn kết với nhau như Đức Giê-su nói với đám đông ở 6,40: “Đây là ý
muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy người Con và tin vào Người thì có sự
sống đời đời.”
Tuy vậy, giữa “thấy bằng mắt” và “tin” có một khoảng cách lớn. Bởi lẽ
ngôi mộ trống và những băng vải không phải là bằng chứng hiển nhiên về Đức
Giê-su Phục Sinh. Môn đệ này đã thấy dấu chỉ, chứ không thấy Đức Giê-su sống lại.
Nói cách khác môn đệ này “thấy” mà “không thấy”, thấy hiện trường chứ không thấy
Đức Giê-su. Ý này nối kết với lời Đức Giê-su Phục Sinh nói với Tô-ma cuối Tin
Mừng ở 20,29: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin? Phúc cho những người không thấy mà
là những người tin.” Lời chúc phúc vừa dành cho môn đệ Đức Giê-su thương mến, vì
ông tin khi chưa thấy Đức Giê-su; vừa dành cho người tin qua mọi thời đại là người
không thấy Đức Giê-su nhưng tin nhờ lời rao giảng của các môn đệ và nhờ lời chứng
thuật lại trong Tin Mừng. Thật ra, không ai có bằng chứng hiển nhiên về biến cố
Phục Sinh. Kể cả những người không thấy mà tin, trình thuật 20,1-10 mời gọi đạt
tới hành động “thấy” đích thực như môn đệ Đức Giê-su thương mến. Từ “thấy” dấu
chỉ được kể lại trong Tin Mừng, dẫn tới thấy bằng con mắt đức tin, nghĩa là
nhận ra sự hiện diện của Đấng Phục Sinh trong cuộc đời.
3. Tin gì?
Động từ “tin” trong câu “ông đã thấy và đã tin” (20,8b) không có túc từ
và cho phép hiểu rằng môn đệ này không chỉ tin Đức Giê-su sống lại mà còn tin
vào lời Đức Giê-su đã nói, tin Đức Giê-su là Đấng Chúa Cha sai đến, tin Đức
Giê-su là Đấng ban sự sống đời đời. Ở mức độ cao nhất là tin Đức Giê-su là Chúa
và là Thiên Chúa như Tô-ma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh ở 20,28: “Lạy Chúa
của con, lạy Thiên Chúa của con.” Lời này cũng là tuyên xưng của cộng đoàn và của
Hội Thánh. “Tin” theo nghĩa tuyệt đối, không có túc từ, cho thấy môn đệ Đức
Giê-su thương mến đã hiểu ý nghĩa của biến cố Thương Khó. Xem bài viết: “Tin vào ai? Tin điều gì? Tin
thế nào? (TM Gio-an).”
Vậy điều xem ra mâu thuẫn giữa “đã thấy và đã tin” (20,8) với “chưa hiểu”
(20,9) được lý giải khi phân biệt môn đệ Đức Giê-su thương mến với các môn đệ khác.
Câu 20,8 nói về lòng tin của môn đệ Đức Giê-su thương mến, còn câu 20,9 nói về
tình trạng chung của các môn đệ khác, trong đó có Phê-rô. Đây là nhóm các môn
đệ mà Đức Giê-su đã báo trước ở 16,32: “Này đến giờ – và đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi
người về nhà mình và bỏ lại Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình vì
Cha ở với Thầy.” Lời này không áp dụng cho môn đệ Đức Giê-su yêu mến vì ông
trung tín với Đức Giê-su và hiện diện dưới chân thập giá.
Kết Luận
Bài viết trình bày khuôn mặt môn đệ Đức Giê-su thương mến trong Tin Mừng
Gio-an và đặc biệt lời khẳng định của người thuật chuyện ở 20,8b: “Ông đã thấy
và đã tin”. Môn đệ này đã được lý tưởng
hoá để trở thành khuôn mẫu của “thấy” và “tin” cho độc giả, trong khi Phê-rô và
các môn đệ chỉ tin sau khi Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra với họ.
Đức Giê-su Phục Sinh đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ, tuy
nhiên “thấy” và “tin” qua những dấu chỉ thuật lại trong Tin Mừng vẫn là thách đố
cho độc giả ngày nay. Qua nhân vật môn đệ Đức Giê-su thương mến, đoạn văn mời gọi
độc giả tin vào Đức Giê-su Phục Sinh và tin vào lời Người để đón nhận sự sống,
niềm vui và bình an Người ban tặng./.
Theo con, thấy mà tin là chuyện bình thường. Nhiều lúc thấy rồi mà không hiểu thì lấy gì mà tin, nhưng qua bài chia sẻ của cha, "thấy" và "tin" là những dấu chỉ trải nghiệm qua cuộc sống cảm nhận được niềm vui và bình an của Đấng Phục sinh ban tặng. Thực tế trong cuộc sống, nó không tươi đẹp như mình mơ, nhưng mà trong cuộc sống có nhiều ân huệ, nhiều niềm vui. Chẳng hạn như đã được đọc những bài chia sẻ Phúc âm của cha, cũng mang lại cho con nhiều sự hữu ích.
Trả lờiXóaChúc cha nhiều niềm vui.
Cam on Anh rat nhieu da gui bai chia se!
Trả lờiXóaDay cung la co hoi giup em nhin lai muc do TIN va LONG MEN cua minh vao Thay Giesu, Dang ma minh da chon lua va buoc theo...
Anh khoe khong? Chuc Anh luon khoe, binh an va nhieu niem vui trong Tuan Vong Thu III nhe!
Cau nguyen cho em voi nhe!
Cha oi, con da doc va da in ra de suy niem roi day, cam on Cha nha
Trả lờiXóaCha ơi, con đã đọc say sưa, từng ngày những bài chia sẻ của cha trên trang blog này. Nó rất hay và hữu ích cho con trong việc hiểu và sống Lời Chúa.
Trả lờiXóaChúc Cha luôn an mạnh.
hôm nay con mới đọc bài chia sẻ này của cha! con cũng đang thích câu "đã thấy và đã tin" như cha chia sẻ "giữa việc “thấy bằng mắt” và “tin” có một khoảng cách lớn lao" có lẽ con tim sẽ làm khoảng cách đó gần lại ,như kinh nghiệm của người môn đệ được Đức Giêsu thương mến này đúng không cha! có nhiều người "thấy" những biến cố trong đời thường là may mắn hoặc ngẫu nhiên, nhưng có nhiều người lại chiêm nghiệm biến cố đó như quà tặng đến từ Thiên Chúa. là tu sĩ Đaminh "thấy và tin" là rất cần thiết! con thích cha thánh Đaminh vì người chiêm niệm trên đường phố....ước gì con cũng giống Ngài một chút có thể "thấy" và "thấy một lần nữa qua đức tin"......cám ơn bài chia sẻ của cha! hôm đi lễ vọng thấy cha dâng lễ con nhìn cha và nghĩ!còn những lòng nhiệt như cha, đó cũng là dấu chỉ sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới mà ngoài kia còn biết bao những ngờ vực mà thế giới vật chất đang lôi kéo! lúc đó con cám ơn Chúa và cũng thầm cầu nguyện cho cha và các anh em đang đồng tế với cha!...những người đang nhóm lửa cho thế giới...xin Chúa Chúc lành!
Trả lờiXóa