Bài viết
tiếng Anh:
Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 16 tháng 04 năm 2020.
Nội dung
I. Bản văn và cấu trúc 1,1-13
1. Bản văn
2. Cấu trúc
II. Phân tích một số đề tài
1. Sự sống và ánh sáng cho loài người
2. Lời–Đức Giê-su đến thế gian
3. Đón nhận và không đón nhận Lời–Đức Giê-su
Kết luận
Dẫn nhập
Danh từ “logos”
có nghĩa “lời nói”. Triết học Hy-lạp dùng từ “logos” chỉ thực thể vĩnh
hằng, nguyên lý thần linh hay linh hồn của vũ trụ. Lời tựa Tin Mừng Gio-an dùng
từ “Logos” (Lời) để nói đến một ngôi vị. Lời được đồng hoá với Đức Giê-su trong Tin
Mừng. Lời tựa (Ga 1,1-18) vừa dẫn vào nội dung Tin Mừng, vừa trình bày mặc khải
về nguồn gốc và sứ vụ của Lời–Đức Giê-su, vừa cho biết niềm tin của tác giả và của
cộng đoàn. Dịch từ “Logos” bằng “Lời” cho phép giữ được những gợi ý độc
đáo về thần học: Đức Giê-su là “Lời” ở với Thiên Chúa và là Thiên Chúa (1,1), là
Lời làm người (1,14a), là Lời của Thiên Chúa cho loài người, là Đấng nói lời
Thiên Chúa, mặc khải ý định cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại (1,18;
3,16). Trong bài viết “Ga
1,14.18. ‘Thấy’ và ‘nghe’ Lời Nhập Thể” đã trình bày cấu trúc lời tựa (1,1-18)
và phân tích một số đề tài ở 1,14 và 1,18. Bài viết này tìm hiểu phần đầu của
lời tựa (1,1-13) qua hai mục: (I) bản văn và cấu trúc
1,1-13; (II) phân tích một số đề tài.
I. Bản văn và cấu trúc
1,1-13
Phần này
trình bày (1) bản văn Ga 1,1-13 và (2) cấu trúc.
1. Bản văn
Lời tựa Tin Mừng gồm hai
phần: 1,1-13 và 1,14-18. Dưới đây trích dẫn bản văn Ga 1,1-13, trong đó dịch lại câu 1,3 và chọn chấm
câu ở cuối câu 1,3. Đoạn văn 1,6-8 chèn vào lời tựa và nói về Gio-an, phần còn
lại 1,1-5.9-13 nói về “Lời”:
Ga 1,1-13: 1 Lời
có lúc khởi đầu, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa. 2 Người ở với
Thiên Chúa lúc khởi đầu. 3 Mọi sự nhờ Người mà được tạo thành, và không
có Người thì chẳng có một cái gì đã tạo thành mà được tạo thành. 4 Ở nơi
Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng của loài người; 5 và ánh sáng chiếu
soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng.
6 Có một người
được sai đến từ Thiên Chúa, tên ông là Gio-an. 7 Ông ấy đến làm chứng. Ông làm
chứng về ánh sáng, để mọi người tin nhờ ông ấy. 8 Ông ấy không phải là ánh
sáng, nhưng làm chứng về ánh sáng.
9 Người là ánh sáng
thật, ánh sáng chiếu soi mọi người, đến trong thế gian. 10 Người ở trong thế gian, thế gian được tạo thành
nhờ Người và thế gian đã không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà
mình, và những kẻ thuộc về Người đã không đón nhận Người. 12 Nhưng những ai đã
đón nhận Người, Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ là những
người tin vào danh của Người. 13 Họ được sinh ra không bởi khí huyết, cũng
không bởi ước muốn của người phàm, cũng không bởi ước muốn của đàn ông, nhưng
bởi Thiên Chúa. (Xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư).
2. Cấu trúc
Đoạn văn 1,1-13 cấu
trúc song song A, B, C, A’, B’, C’ như sau:
Yếu tố A // A’
cho biết căn tính của Lời. Yếu tố A (1,1-2) là tuyên xưng niềm tin của người
thuật chuyện về nguồn gốc của Lời. Yếu tố A’ (1,6-8) là lời chứng của Gio-an về
Lời là ánh sáng và mục đích của lời chứng là để mọi người tin. Yếu tố B // B’
trình bày sứ vụ của Lời. Mọi sự được tạo thành nhờ Lời (B. 1,3-4) và Lời là ánh
sáng thật, đã đến thế gian (B’. 1,9). Yếu tố C // C’ nói về tương quan giữa ánh
sáng và bóng tối (C. 1,5) và tương phản giữa “không nhận biết” và “nhận biết” Lời
(C’. 1,10-13). Xem cấu trúc 1,1-13 trong F. J. Moloney, The Gospel of John,
(Sacra Pagina Series 4), Collegeville (MN), The Liturgical Press, 1998, p.
34-35. Những đề tài trong 1,1-13 sẽ được triển khai trong Tin Mừng. Phân tích
dưới đây chú trọng liên hệ giữa Lời trong lời tựa và Đức Giê-su trong Tin Mừng giúp
hiểu Lời là ai và Đức Giê-su là ai, đồng thời làm rõ tương quan lời tựa và nội
dung Tin Mừng.
II. Phân tích một số đề tài
Phần này liên kết lời tựa và nội dung Tin Mừng qua
ba đề tài: (1) sự sống và ánh sáng cho loài người; (2) Lời–Đức Giê-su đến thế gian;
(3) đón nhận và không đón nhận Lời–Đức Giê-su.
1. Sự sống và ánh sáng cho loài người
Lời–Đức Giê-su trong
tương quan với loài người được tìm hiểu qua bốn ý: (1) nguồn gốc, căn tính và sứ
vụ của Lời (1,1-3); (2) thay đổi cách chấm câu ở 1,3; (3) Lời–Đức Giê-su là sự
sống, (4) Lời–Đức Giê-su là ánh sáng.
(1) Trong hai câu
đầu lời tựa (1,1-2), người thuật chuyện giới thiệu nguồn gốc của Lời qua ba yếu
tố: (1) sự hiện hữu của Lời: “Lời có lúc khởi đầu” (1,1a); (2) nơi ở của Lời:
“Lời ở với Thiên Chúa” (1,1b.2); (3) bản chất của Lời: “Lời là Thiên Chúa” (1,1c).
Tiếp đến câu 1,3 trình bày công trình tạo dựng của Lời qua lối hành văn khẳng
định và phủ định: “Mọi sự nhờ Người mà được tạo thành (khẳng định), và
không có Người thì chẳng có một cái gì đã tạo thành, mà được tạo thành (phủ
định).” Cách diễn tả ý tưởng bằng câu khẳng định và phủ định nhằm nhấn mạnh và
đề cao vai trò của Lời trong công trình tạo dựng. Nguồn gốc thần linh và vai
trò của Lời ở Ga 1,1-3 gợi đến trình thuật tạo dựng đầu sách Sáng Thế (St 1–2).
Sự hiệu hữu của Lời trước cả lúc tạo dựng trời đất, nên cụm từ “lúc khởi đầu” ở
Ga 1,1a có nghĩa tuyệt đối.
(2) Trong Bản
văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư, chúng tôi ngắt câu theo Nestle-Aland, Novum
Testamentum Graece, Nestle-Aland 27th Edition, 1993, là nối câu 1,3c với đầu
câu 1,4 như sau: “3 Nhờ Người, mọi sự được tạo thành, và không có Người thì
chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là sự sống, và
sự sống là ánh sáng của loài người.” Nay chúng tôi thay đổi cách ngắt câu trên và
chọn ngắt câu theo Bản văn Hy-lạp
Byzantine, The New Testament in the Original Greek, Byzantine Text Form,
2005, nghĩa là chấm câu cuối 1,3: “Mọi sự nhờ Người mà được tạo thành,
và không có Người thì chẳng có một cái gì đã tạo thành, mà được tạo thành.” Cách chấm câu này đồng hoá rõ ràng hơn “Lời” với “sự sống” và “ánh
sáng”. Đồng thời phù hợp với nội dung Tin Mừng: Đức Giê-su được đồng hoá với sự
sống (zôê) và ánh sáng (phôs).
(3) Trong lời tựa,
Lời là sự sống (1,4a) thì trong Tin Mừng Đức Giê-su là sự sống với ba đề tài: (a)
Đức Giê-su là Đấng “có sự sống (zôê)”.
Người nói với những người Do Thái ở 5,26: “Như Cha có sự sống (zôên) nơi
mình thế nào thì cũng ban cho Con có sự sống (zôên) nơi mình như
vậy.” (b) Đức Giê-su làm cho bất cứ ai tin vào Người thì “có sự sống đời đời”. Người
tuyên bố ở 3,16: “Thiên Chúa đã quá yêu mến thế gian, đến nỗi đã ban Con Một,
để bất cứ ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời đời.” (c) Chính
Đức Giê-su là sự sống như Người mặc khải cho Mác-ta ở 11,25-26a: “25 Chính Thầy
là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống, 26a
và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn đời sẽ không chết.” “Sự sống” là
đề tài quan trọng trong Tin Mừng; bởi vì Đức Giê-su được Cha sai đến thế gian để
ban sự sống cho thế gian. Sự sống đó chính là Đức Giê-su. Người nói với Tô-ma ở
14,6: “Chính Thầy là con đường và là sự thật và là sự sống; không
ai đến được với Cha mà không qua Thầy.”
(4) Trong lời tựa,
Lời là ánh sáng (1,4a) thì trong Tin Mừng Đức Giê-su là ánh sáng. Ba lần Đức
Giê-su đồng hoá với ánh sáng ở ch. 8, ch. 9 và ch. 12. (a) Trong ch. 8, Người đồng hoá với ánh sáng và nối kết ánh sáng với
sự sống. Người tuyên bố ở 8,12: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo
Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự
sống.” (b) Trước khi chữa lành người mù từ thuở mới sinh trong ch. 9, Đức
Giê-su nói với các môn đệ ở 9,5: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là
ánh sáng của thế gian.” Lời này cho thấy sứ vụ Đức Giê-su mang chiều kích phổ quát:
Người là ánh sáng cho toàn thể nhân loại. Ý này đã khẳng định trong lời tựa ở
1,4. (c) Cuối sứ vụ, Đức Giê-su mời gọi đám đông ở 12,35-36a: “35 Còn một ít
thời gian nữa, ánh sáng ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người có ánh
sáng, để bóng tối không bắt được các người. Ai
đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu. 36a Khi các người có ánh sáng,
hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng.” Trong đoạn văn này có nhiều
kiểu nói dùng biểu tượng ánh sáng. Ánh sáng ở 12,25-26a là chính Đức Giê-su. Nên
có ánh sáng là có Đức Giê-su, tin vào ánh sáng là tin vào Đức Giê-su. Ý tưởng
“trở nên con cái ánh sáng” gợi về “trở nên con Thiên Chúa” trong lời tựa ở 1,12.
Tóm lại, đề tài sự sống và ánh sáng trong lời tựa được triển khai trong Tin
Mừng, nghĩa là lời tựa giới thiệu Tin Mừng.
2. Lời–Đức Giê-su đến thế gian
Phần này trình bày
ba ý: (1) hoạt động của Lời trong phần đầu lời tựa (1,1-13); (2) Gio-an làm chứng
là Đức Giê-su đã đến thế gian.
(1) Trong lời tựa,
mầu nhiệm Nhập Thể được trình bày cách long trọng ở 1,14a: “Lời đã trở thành
người phàm và cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người.”
Tuy nhiên hoạt động của Lời trong thế gian đã bắt đầu ở 1,4: “Ở nơi Người (Lời)
là sự sống, và sự sống là ánh sáng của loài người.” (1,4). Phần đầu lời tựa
(1,1-13) dùng đại từ, giống đực, ngôi thứ ba, số ít: “houtos” (Người), thay
thế cho danh từ “Logos” (Lời), giống đực. Hơn nữa. Lời chứng của Gio-an ở
1,6-8 là dấu hiệu hiển nhiên cho thấy Lời là ánh sáng đã hiện diện trong lịch sử
nhân loại.
(2) Nếu như lời
tựa khẳng định “Lời là ánh sáng đến thế gian” và “chiếu soi mọi người” (1,9),
thì nội dung Tin Mừng trình bày Đức Giê-su là Đấng đến thế gian, thi hành sứ vụ
trong thế gian. Người thuật chuyện nói về lời chứng của Gio-an ở 1,15: “Gio-an
làm chứng về Người (Lời Nhập Thể), ông ấy hô lên rằng: ‘Đây là Đấng mà tôi đã
nói: Người đến sau tôi, nhưng vượt trước tôi, vì Người có trước tôi.’” Trong câu
này Gio-an giới thiệu Đức Giê-su và cho biết tương quan giữa ông với Đức Giê-su.
Khi làm chứng về Đức Giê-su trong đoạn văn 1,19-34, Gio-an nhắc lại câu 1,15. Người
thuật chuyện kể ở 1,29-30: “29 Hôm sau, ông ấy (Gio-an) thấy Đức Giê-su tiến về
phía mình, ông ấy nói: ‘Đây là Chiên của
Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội thế gian. 30 Chính Người là Đấng mà tôi đã
nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt trước tôi, vì Người có trước tôi.’” Vậy
khẳng định ở 1,9: “Người (Lời) là ánh sáng thật, ánh sáng chiếu soi mọi
người, đến trong thế gian”, chính là vai trò và sứ vụ của Đức Giê-su trong Tin
Mừng.
3. Đón nhận và không đón nhận Lời–Đức Giê-su
Lời đem đến sự
sống và ánh sáng cho mọi người. Nhưng Lời là ánh sáng đối diện với bóng tối. Còn
Đức Giê-su là ánh sáng nhưng Người bị thù ghét, chống đối và bách hại. Trong bảng
cấu trúc trên, song song giữa yếu tố C (1,5) và C’ (1,10-13) cho thấy tương
phản giữa “ánh sáng” và “bóng tối” (1,5); giữa “không đón nhận” và “đón nhận” (1,10-13). Phần
sau phân tích ba điểm: (1) câu 1,11; (2) các câu 1,12-13; (3) ánh sáng chiến thắng
bóng tối.
(1) Người thuật
chuyện cho biết ở 1,11: “Người (Lời) đã đến nhà mình, và những kẻ thuộc về
Người đã không đón nhận Người”. Câu này gợi đến xung đột trong nội dung Tin
Mừng. Đức Giê-su là người Do Thái, Người đến nhà của Người, thi hành sứ vụ và
rao giảng cho dân Do Thái là dân Thiên Chúa tuyển chọn. Đức Giê-su là Con Thiên
Chúa, được Thiên Chúa sai đến với dân của Người nhưng phần lớn giới lãnh đạo Do
Thái thời đó đã không đón nhận Đức Giê-su, không tin, chống đối và tìm giết Người.
Những kẻ chống đối Đức Giê-su trong Tin Mừng là các nhóm: “những người
Pha-ri-sêu”, “những người Do Thái” và “các thượng tế”. Vậy lời tựa tóm kết sự
khước từ trong Tin Mừng ở 1,5 và 1,10-11.
(2) Tương phản giữa
không đón nhận (1,11) và đón nhận (1,12-13) làm nổi bật vụ kiện giữa “ánh sáng”
và “bóng tối” trong Tin Mừng. Tác giả lời tựa dành hai câu (1,12-13) để làm rõ thế
nào là “đón nhận Lời”, thế nào là “tin vào Đức Giê-su”: Họ được trở nên “con Thiên
Chúa” (1,12); được “làm con Thiên Chúa” cùng với Đức Giê-su là “Con Một Thiên
Chúa” (1,18). Nghĩa là người tin vào Đức Giê-su thì trở thành “anh em” của
Người. Sau khi Phục Sinh, Đức Giê-su cho Ma-ri-a Mác-đa-la biết Người đã Sống Lại
và nói với chị ở 20,17: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Cha. Nhưng
hãy đi đến với anh em của Thầy và nói với họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng
là Cha của anh em, Thiên Chúa của Thầy cũng
là Thiên Chúa của anh em.’” Trong câu này Đức Giê-su gọi các môn đệ là anh em,
nhưng có phân biệt: Cha của Đức Giê-su và Cha của các môn đệ vì Đức Giê-su là
Con Một Thiên Chúa. Vậy đón nhận hay không đón nhận Lời có nghĩa là tin
hay không tin vào Đức Giê-su. Ai tin thì “có sự sống” và sẽ bước đi trong “ánh
sáng của sự sống”, được hiệp thông với Thiên Chúa, trở thành Con Thiên Chúa, trở
thành anh em và bạn hữu của Đức Giê-su (15,13-15).
(3) Sự xung đột
giữa Đức Giê-su và những kẻ chống đối trong Tin Mừng được nói đến trong lời tựa
ở 1,5: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh
sáng.” Lời này cho thấy ánh sáng sẽ chiến thắng bóng tối, vì thế lực bóng
tối không lấn át được ánh sáng là Đức Giê-su. Tuy lời tựa cho biết Lời–Đức
Giê-su bị chống đối và bị khước từ, nhưng phần thứ nhất lời tựa (1,1-13) kết
thúc trong ánh sáng, với đề tài đón nhận, tin, và được làm con Thiên Chúa.
Kết luận
Phân tích trên
cho thấy lời tựa liên kết chặt chẽ với nội dung Tin Mừng. Thông thường lời tựa được
viết sau khi hoàn thành tác phẩm, nhằm giới thiệu nội dung tác phẩm cho độc giả.
Cũng vậy, lời tựa Tin Mừng được viết sau khi Tin Mừng đã hoàn thành, nhằm giới
thiệu các đề tài bàn đến trong Tin Mừng. Điều độc đáo trong lời tựa là dùng từ
“Logos” (Lời) để trình bày nguồn gốc và căn tính của nhân vật chính là Đức
Giê-su. Lời tựa vừa hướng dẫn cách đọc Tin Mừng, vừa là lời tuyên xưng niềm tin
của cộng đoàn về nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su trong tương quan với lịch
sử cứu độ và lịch sử nhân loại.
Nhờ lời tựa, độc
giả biết Đức Giê-su thực sự là ai trước khi đọc câu chuyện về Người. Các đề tài
được nói đến trong lời tựa như Lời là sự sống và là ánh sáng; đón nhận hay
không đón nhận Lời, được trình bày chi tiết trong sứ vụ Đức Giê-su. Lời tựa trở
thành lời chứng mạnh mẽ cho độc giả về nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su, nên giáo
huấn của Người xác thực và đáng tin. Người có khả năng đem lại sự sống đời đời cho
người tin và ai theo Người sẽ có ánh sáng của sự sống (8,12)./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/12/ga-11-13-loi-logos-la-su-song-la-anh.html
Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóaLogos est un terme passionnant. Merci de nous expliquer que Logos personnalise en Jésus - Christ. Logos est l'âme et la raison d'être de la création. ce qui me pose des questions , c'est que St- Jean a dit : Logos venait dans le monde et pourtant Logos était dans le monde. Logos est Dieu. Logos tourné vers Dieu, engendré par Dieu et logos incarné dans le monde. Logos est à la fois incarné dans le monde en os et en chair et en même temps il existe déjà . Car le monde fut par Lui. Merci Père pour votre partage si savant.
Trả lờiXóa