03/04/2020

Biết bằng lý trí, biết bằng con tim (TM Gio-an)



Tác giả: Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Cập nhật, ngày 03 tháng 04 năm 2020.

Nội dung

Dẫn nhập
I. Biết bằng lý trí (oida)
    1. Số lần và chiết tự
    2. Đức Giê-su và các môn đệ “biết” (oida)
    3. Những kẻ chống đối không biết” (oida)
II. Biết bằng con tim (ginôskô)
    1. Số lần và chiết tự
    2. Đức Giê-su và các môn đệ biết(ginôskô)
    3. Những kẻ chống đối không biết(ginôskô)
III. Kết hợp “oida” và “ginôskô
    1. Đức Giê-su biết “oida” và “ginôskô
    2. Những kẻ chống đối không biết “oida” và “ginôskô
IV. Động từ “làm cho biết” (gnôrizô)
    1. Làm cho biết mặc khải (15,15)
    2. Tiếp tục làm cho biết (17,26)
Kết luận



Dẫn nhập

Đề tài “biết” trong Tin mừng Gio-an diễn tả qua ba động từ Hy-lạp. Trong đó hai động từ “oida” (84 lần) và “ginôskô” (57 lần) đều có nghĩa là “biết”; động từ “gnôrizô” (3 lần) có nghĩa “làm cho biết”. Đề tài này quan trọng về thần học và liên quan đến nhiều nhân vật: Đức Giê-su, Chúa Cha, các môn đệ và những kẻ chống đối, Ni-cô-đê-mô, người phụ nữ Sa-ma-ri, v.v...

Hiện nay có ba ý kiến về cách hiểu “oida” và “ginôskô” trong Tin Mừng Gio-an: (1) phân bit khác nhau gia “oida” và “ginôskô”, (I. de La Potterie); (2) hai đng toida” và “ginôskô” thay thế được cho nhau, đng nghĩa, (J. Gaffney; K. J. Carl); (3) có phân bit, nhưng không rõ, (R. E. Brown). Xem các lp trường trong P.-M. Jerumanis, Réaliser la communion avec Dieu, 1996, n. 181, p. 147.

Trong Tin Mừng có những nơi khó phân biệt sự khác nhau về sắc thái nghĩa của “oida” và “ginôskô”. Tuy nhiên, bối cảnh văn chương cũng như phân tích từ ngữ cho phép hiểu sắc thái nghĩa khác nhau của hai động từ này. Động từ “oida” nhắm vào sự hiểu biết bằng lý trí nhờ suy luận; động từ “ginôskô” nghiêng về sự hiểu biết bằng con tim, nhờ tương quan và kinh nghiệm sống. Bài viết tìm hiểu đề tài “biết” trong Tin Mừng qua bốn mục: (I) biết bằng lý trí (oida); (II) biết bằng con tim (ginôskô); (III) kết hợp “oida” và “ginôskô”; (IV) động từ “làm cho biết” (gnôrizô).

I. Biết bằng lý trí (oida)

Ba điểm sau bàn về động từ “oida” (biết, hiểu biết): (1) số lần và chiết tự; (2) Đức Giê-su và các môn đệ “biết” (oida); (3) những kẻ chống đối không biết” (oida).

    1. Số lần và chiết tự

Động từ “oida” xuất hiện 84 lần trong Tin Mừng Gio-an:
Ch. 1–12 (54 lần): 1,26.31.33; 2,9a.9b; 3,2.8.11; 4,10.22a.22b.25.32.42; 5,13.32; 6,6.42.61.64; 7,15.27.28a.28b.28c.29; 8,14a.14b.19a.19b.19c.37.55a.55b.55c; 9,12.20.21a.21b.24.25a.25b.29a.29b.30.31; 10,4.5; 11,22.24.42.49; 12,35.50.
Ch. 13–17 (14 lần): 13,1.3.7.11.17.18;14,4.5a.5b; 15,15.21; 16,18.30a.30b.
Ch. 18–21 (16 lần): 18,2.4.21; 19,10.28.35; 20,2.9.13.14; 21,4.12.15.16.17.24.

Động từ Hy-lạp “oida” có ngữ căn là “id-” có nghĩa “thấy”, “nhận ra”, “nhận biết”. Trong chiều hướng này, “oida” diễn tả hiểu biết nhờ khả năng lý luận bằng lý trí. Hễ là con người, ai cũng có khả năng này. Các môn đệ đã tin vào Đức Giê-su nhưng vẫn phải học hỏi để hiểu biết mặc khải.

    2. Đức Giê-su và các môn đệ “biết” (oida)

Đồng từ “oida” liên quan đến Đức Giê-su và các môn đệ được minh hoạ qua ba ý: (1) Đức Giê-su biết, (2) các môn đệ biết, (3) mọi người được mời gọi biết.

(1) Đức Giê-su biết Giờ của Người đã đến và biết ý nghĩa của Giờ ấy. Người thuật chuyện kể ở 13,1-3: “1 Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết (eidôs) rằng giờ của Người đã đến để ra khỏi thế gian này mà về với Cha. Đã yêu mến những kẻ thuộc về mình ở trong thế gian, Người đã yêu mến họ đến cùng. 2 Trong bữa ăn, quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Người. 3 Người biết (eidôs) rằng: Cha đã trao ban mọi sự trong tay Người và Người bởi Thiên Chúa mà đến và Người đi về cùng Thiên Chúa.” (Xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư). Hai lần động từ “oida” ở 13,1.3 cho thấy Đức Giê-su ý thức và biết rõ về Giờ của Người, Người biết điều gì sắp xảy đến với Người.

(2) Đầu ch. 10, Đức Giê-su dùng động từ “oida” để nói về khả năng nhận biết của đàn chiên ở 10,4-5: “4 Khi đàn chiên của mình đã ra hết, người ấy (mục tử) đi trước chúng và đàn chiên đi theo người ấy, vì chúng biết (oidasin) tiếng nói của người ấy. 5 Chúng sẽ không đi theo người lạ, nhưng chúng sẽ trốn tránh anh ta, vì chúng không biết (ouk oidasin) tiếng nói của những người lạ.” Trong ch. 13–16, qua những thắc mắc của các môn đệ, Đức Giê-su cho họ biết Người là ai, từ đâu đến và sẽ đi về đâu. Cuối sứ vụ của Đức Giê-su, các môn đệ nói với Người ở 16,30: “Bây giờ chúng con biết (oidamen) rằng Thầy biết (oidas) mọi sự và Thầy không cần có ai để hỏi Thầy. Vì điều này, chúng con tin rằng: Thầy từ Thiên Chúa mà đến.” Vậy quá trình giảng dạy của Đức Giê-su đã đạt kết quả. Các môn đệ đã biết Người nhưng vẫn còn nhiều điều các môn đệ chưa biết, cần học hỏi suốt cả đời để càng ngày càng biết thêm về Đức Giê-su và giáo huấn của Người.

(3) Đức Giê-su mời gọi người nghe tìm hiểu để “biết”. Người nói với người phụ nữ Sa-ma-ri ở 4,10: “Nếu chị nhận biết (êideis) ân huệ của Thiên Chúa và ai là người nói với chị: ‘Cho Tôi uống với’, hẳn chị đã xin người ấy và người ấy đã ban cho chị nước sự sống.” Trong phần tiếp theo cuộc đối thoại, chị đã nhận biết một phần về Đức Giê-su khi nói với Người ở 4,19: “Thưa Ông, tôi thấy rằng chính Ông là một ngôn sứ.” Trong ch. 9, cách anh mù được thấy tranh luận với những kẻ chất vấn anh, đã đề cao sự hiểu biết của anh mù. Người thuật chuyện kể ở 9,24-25: “24 Vậy họ (những người Pha-ri-sêu và những người Do Thái) gọi người ấy lần thứ hai – người trước đây là người mù –, và nói với anh ta: ‘Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng tôi, chúng tôi biết (oidamen) rằng: Ông ấy là người tội lỗi.’ 25 Anh ta trả lời: ‘Ông ấy là người tội lỗi hay không, tôi không biết (ouk oida). Tôi chỉ biết (oida) một điều: Là người mù nhưng bây giờ tôi thấy được.’” Bản văn mời gọi độc giả biết lý luận sắc bén như anh mù được thấy: biết và xác tín những gì Đức Giê-su đã làm cho mình.

    3. Những kẻ chống đối không biết” (oida)

Trong ch. 8, Đức Giê-su nói với những người Pha-ri-sêu ở 8,14: “Nếu chính Tôi làm chứng về mình lời chứng của Tôi là thật, bởi vì Tôi biết (oida) Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu. Nhưng các ông, các ông không biết (ouk oidate) Tôi từ đâu tới và Tôi đi đâu.” Sau đó Người nói với họ ở 8,18: “Chính Tôi là người làm chứng về mình, và Cha, Đấng đã sai Tôi, làm chứng về Tôi.” Những người Pha-ri-sêu hỏi Người: “Cha của Ông ở đâu?” (8,19a) Người trả lời họ: “Các ông không biết (oidate) Tôi, cũng chẳng biết Cha của Tôi. Nếu các ông biết Tôi (êideite), các ông cũng biết (êideite) Cha của Tôi” (8,19b). 

Bối cảnh tranh luận ở 8,18-19 nhấn mạnh khía cạnh hiểu biết bằng lý luận nên dùng động từ “oida”. Điều nghịch lý là những người Pha-ri-sêu đang đối thoại với Đức Giê-su, họ biết rõ nguồn gốc của Đức Giê-su, nhưng Người khẳng định họ không biết Người. Không biết Đức Giê-su thì cũng không biết Chúa Cha. Những kẻ chống đối, không tin và không đón nhận Đức Giê-su. Họ không thuộc về Thiên Chúa (8,47), không thuộc về sự thật (18,37) và không thuộc về đàn chiên của Người (10,26), nên không biết Đức Giê-su cũng dễ hiểu. Họ đã không dùng khả năng lý trí để nhận biết Đức Giê-su.

II. Biết bằng con tim (ginôskô)

Động từ “ginôskô” (biết, học biết) được trình bày qua ba điểm: (1) số lần và chiết tự; (2) Đức Giê-su và các môn đệ “biết” (ginôskô); (3) những kẻ chống đối không biết” (ginôskô).

    1. Số lần và chiết tự

Động từ “ginôskô” (biết, học biết), xuất hiện 57 lần trong Tin Mừng:
Ch. 1–12 (33 lần): 1,10.48; 2,24.25; 3,10; 4,1.53; 5,6.42; 6,15.69; 7,17.26.27.49.51; 8,27.28.32.43.52.55; 10,6.14a.14b.15a.15b.27.38a.38b; 11,57; 12,9.16.
Ch. 13–17 (22 lần): 13,7.12.28.35; 14,7a.7b.7c.9.17a.17b.20.31; 15,18; 16,3.19; 17,3.7.8.23.25a.25b.25c.
Ch. 18–21 (2 lần): 19,4; 21,17.

Động từ “ginôskô” có tiếp vĩ ngữ: “-skô”. Đây là dạng láy âm diễn tả ý tưởng học biết, lặp đi lặp lại nhiều lần nhằm đạt tới một sự hiểu biết nào đó. “Biết” như thế là qua quá trình học hỏi kèm theo kinh nghiệm sống. Nên động từ “ginôskô” còn có nghĩa “học biết” (apprendre à connaître).

Trong Kinh Thánh, động từ “ginôskô” (biết) còn có nghĩa đặc biệt: diễn tả sự hiệp thông sâu xa, trong tương quan tình yêu. Theo nghĩa này, “ginôskô” (biết) diễn tả việc vợ chồng ăn ở với nhau. Sách Sáng thế kể ở 4,1: “Con người biết (theo nghĩa ăn ở với) E-và, vợ mình. Bà thụ thai và sinh Ca-in.” Trong câu này, động từ “biết” tiếng Híp-ri: da’, được dịch sang Hy-lạp trong bản LXX là “ginôskô”.

    2. Đức Giê-su và các môn đệ biết(ginôskô)

Phần này trình bày hai ý: (1) Đức Giê-su và Chúa Cha biết(ginôskô); (2) các môn đệ biết(ginôskô).

(1) Đức Giê-su biết những gì thâm sâu nơi con người. Lần đầu tiên Na-tha-na-en gặp Đức Giê-su, Người nói với ông ở 1,47: “Đây đích thật là một người Ít-ra-en, nơi ông ấy không có gian dối.” Na-tha-na-en nói với Người: “Làm sao Ngài lại biết (ginôskeis) tôi?” (1,48a). Đức Giê-su trả lời: “Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, khi anh ở dưới cây vả, Tôi đã thấy anh” (1,48b). Đức Giê-su đã thấy Na-tha-na-en trước khi gặp ông. Cuối ch. 2, người thuật chuyện cho biết trong đoạn văn tóm kết ở 2,23-25: “23 Trong lúc Người (Đức Giê-su) ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm. 24 Nhưng Đức Giê-su, chính Người không tin họ, vì Người biết (ginôskein) tất cả, 25 và Người không cần có ai làm chứng về con người, vì chính Người biết (eginôsken) có gì nơi con người.” Đoạn văn nhấn mạnh sự biết huyền nhiệm của Đức Giê-su và cho thấy lòng tin của dân chúng cần được củng cố thêm qua việc lắng nghe Đức Giê-su để đạt tới lòng tin đích thực.

Sau dấu lạ bánh và cá hoá nhiều, người thuật chuyện cho biết ở 6,15: “Đức Giê-su biết (gnous) họ (đám đông chứng kiến dấu lạ) sắp đến và bắt lấy Người  để tôn làm vua. Một lần nữa, Người đi lên núi một mình.” Trong ch. 10, Đức Giê-su mặc khải cho những người Pha-ri-sêu về tương quan giữa Người với đàn chiên và với Chúa Cha ở 10,14-15: “14 Chính Tôi là mục tử tốt. Tôi biết (ginôskô) chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết (ginôskousi) Tôi, 15 như Cha biết (ginôskei) Tôi và Tôi biết (ginôskô) Cha, và Tôi hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.” Động từ “ginôskô” ở đây diễn tả “biết” trong tương quan: mục tử và đàn chiên, Đức Giê-su và Cha biết lẫn nhau.

(2) Tiến trình hiểu biết của các môn đệ được trình bày theo hướng biết Đức Giê-su thì biết Chúa Cha. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,7: “Nếu anh em biết (egnôkate) Thầy, anh em cũng sẽ biết (gnôsesthe) Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết (ginôskete) Người và đã thấy Người.” Ở đây là biết trong tương quan, biết bằng con tim, bằng sự lắng nghe và đón nhận. Các môn đệ học biết bằng “nghe” và “thấy”: nghe Đức Giê-su và thấy những dấu lạ Người làm. Từ đó, nhận biết Đức Giê-su là ai. Nhờ biết Đức Giê-su, các môn đệ biết về Cha. Vậy không biết Đức Giê-su thì cũng không biết Thiên Chúa. Thiên Chúa ở đây có nhiều đặc điểm mới so với Cựu Ước. Đó là Thiên Chúa theo như Đức Giê-su mặc khải. Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su, Người đến từ nơi Cha, Người được Cha sai đến để ban sự sống cho người tin. Vậy Đức Giê-su mặc khải về Cha và làm cho các môn đệ biết Cha.

Đức Giê-su còn cho biết trước những điều các môn đệ sẽ biết sau biến cố Phục Sinh, Người nói với họ ở 14,20: “Trong ngày đó, anh em sẽ biết (gnôsesthe) rằng: Thầy trong Cha Thầy, anh em trong Thầy và Thầy trong anh em.” Đây là lời hứa quan trọng về sự hiện diện và hiệp thông giữa Đức Giê-su và người tin. Vấn đề là người tin có thực sự biết và sống tương quan này không. Trong ch. 17, Đức Giê-su định nghĩa lòng tin bằng động từ “ginôskô” khi ngỏ lời với Cha của Người ở 17,3: “Đây là sự sống đời đời: Họ nhận biết (ginôskôsin) Cha, Thiên Chúa duy nhất, chân thật, và Đấng Cha đã sai đến Đức Giê-su Ki-tô.”

    3. Những kẻ chống đối không biết(ginôskô)

Trong ch. 8, khi Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 8,26: “Tôi có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật; và Tôi, những điều Tôi đã nghe nơi Người, Tôi nói những điều đó trong  thế gian”, người thuật chuyện cho độc giả biết ở 8,27: “Họ (những người Do Thái) không biết (ouk egnôsan) là Người nói với họ về Cha.” Khi chống đối và tìm giết Đức Giê-su (8,37.40), những người Do Thái mất khả năng nghe và hiểu biết như Người nói với họ ở 8,43: “Tại sao các ông không hiểu biết (ou ginôskete) ngôn ngữ của Tôi? Bởi vì các ông không thể nghe lời Tôi.”

Đầu ch. 16, Đức Giê-su nói với các môn đệ về những kẻ bách hại ở 16,2-3: “2 Họ sẽ làm cho anh em thành những người bị khai trừ khỏi hội đường. Sẽ đến giờ, kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa. 3 Họ sẽ làm những điều đó vì họ đã không biết (egnôsan) Cha cũng chẳng biết Thầy.” Nếu hiểu động từ “ginôskô” theo nghĩa biết nhờ tương quan, nhờ lòng mến, thì những kẻ bách hại đã không biết Đức Giê-su và không biết Thiên Chúa. Họ đã không có tương quan với Thiên Chúa, đã không giữ Lề Luật và các điều răn của Người. Sự “không biết Thiên Chúa” này gợi lại bất trung của dân Ít-ra-en được thuật lại trong Cựu Ước.

Tiến trình học biết Đức Giê-su của những kẻ chống đối đã thất bại. Họ không có khả năng nghe và không biết nhìn để nhận biết Đức Giê-su. Khó khăn của họ là đạt đến sự hiểu biết đích thực. Họ tự cho là biết, nhưng lại “biết không đúng”. M.-é. Boismard và A. Lamouille nhận định về họ: “Vì định hướng sai lạc về Thiên Chúa, nên họ không thể đón nhận cách đúng đắn Đấng Thiên Chúa sai đến.” (M.-é. Boismard; A. Lamouille, Synopse des quatre évangiles, t. III, 1977, p. 378). Thực ra, theo thần học Tin Mừng, chỉ những ai đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa mới đến được với Đức Giê-su như Người cho biết ở 6,44a: “Không ai có thể đến với Tôi, nếu Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy”; và ở 6,45: “Mọi người nghe Cha và đón nhận giáo huấn của Người thì đến với Tôi.”

III. Kết hợp “oida” và “ginôskô

Một số đề tài trong Tin Mừng dùng cả hai động từ oida” và “ginôskô”. Phần sau bàn về trường hợp của (1) Đức Giê-su và (2) những kẻ chống đối.

    1. Đức Giê-su biết “oida” và “ginôskô

Đề tài “Đức Giê-su biết Chúa Cha” được diễn tả bằng cả hai động từ “oida” và “ginôskô”. Ở 8,55, khi tranh luận với những người Do Thái, Đức Giê-su đối lập giữa biết và không biết Chúa Cha. Người nói với họ ở 8,55: “Các ông không biết (ginôskô) Người (Chúa Cha); nhưng Tôi, Tôi biết (oida) Người. Nếu Tôi nói là Tôi không biết (oida) Người, thì Tôi sẽ giống như các ông là kẻ nói dối. Nhưng Tôi biết (oida) Người và Tôi giữ lời của Người.” Đức Giê-su dùng động từ “oida” (biết) để khẳng định Người biết Cha, điều này phù hợp với bối cảnh tranh luận, trong đó khía cạnh hiểu biết bằng lý trí được đề cao. Đồng thời, ở 10,15, Đức Giê-su dùng động từ “ginôskô” để khẳng định Người biết Cha. Người nói ở 10,15: “Cha biết (ginôskô) Tôi, và Tôi biết (ginôskô) Cha.” Bằng cách dùng cả hai động từ: “oida” (8,55) và “ginôskô” (10,15), Đức Giê-su cho thấy Người biết Chúa Cha cách trọn hảo và sâu xa đến nỗi Người khẳng định với những người Do Thái ở 10,30: “Tôi và Cha, Chúng Tôi là một”, và ở 10,38: “Cha trong Tôi và Tôi trong Cha”. Người cũng mặc khải điều này cho các môn đệ khi nói với họ ở 14,9: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”, và ở 14,11: “Thầy trong Cha và Cha trong Thầy.”

Sự hiểu biết của Đức Giê-su về con người cũng được diễn tả bằng động từ “ginôskô” (2,24-25) và “oida” (16,30a). Trong ch. 2, người thuật chuyện cho biết ở 2,24-25: “24 Nhưng Đức Giê-su, chính Người không tin họ, vì Người biết (ginôskein) tất cả, 25 và Người không cần có ai làm chứng về con người, vì chính Người biết (eginôsken) có gì nơi con người.” Đến ch. 16, các môn đệ nói với Đức Giê-su ở 16,30: “Bây giờ chúng con biết (oidamen) rằng Thầy biết (oidas) mọi sự và Thầy không cần có ai để hỏi Thầy. Tương tự như trên, Đức Giê-su biết rõ lòng con người được diễn tả qua cả hai động từ có nghĩa “biết”.

    2. Những kẻ chống đối không biết “oida” và “ginôskô

Đề tài “không biết” liên quan đến những kẻ đối lập xuất hiện 6 lần và diễn tả bằng hai động từ. Trong đó, thế gian không biết, 3 lần: 15,21 (oida); 16,3 (ginôskô); 17,25 (ginôskô); những kẻ chống đối không biết, 3 lần: 7,28 (oida); 8,19 (oida); 8,55 (ginôskô).

Trong ch. 7–8, đề tài “không biết Chúa Cha” của những kẻ chống đối Đức Giê-su (những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu) được diễn tả bằng “oida” và “ginôskô”. Thật vậy, khi giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su nói 7,28b: “Đấng đã sai Tôi là Đấng chân thật, Đấng mà các ông không biết (oida).” Trong ch. 8, Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 8,55a: “Các ông không biết (ginôskô) Người (Cha).”

Sự không biết của thế gian thù ghét trong đoạn văn 15,18–16,4a cũng được diễn tả bằng “oida” (15,21) và “ginôskô” (16,3). Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,21: “Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy (bắt bớ) cho anh em vì danh của Thầy, bởi họ không biết (oidasin) Đấng đã sai Thầy”; và ở 16,3: “Họ sẽ làm những điều đó (giết các môn đệ) vì họ đã không biết (egnôsan) Cha cũng chẳng biết Thầy.”

Phủ định hai động từ “oida” và “ginôskô” cho thấy những kẻ đối lập với Đức Giê-su đã hoàn toàn không biết Người và không biết Cha. Họ không biết về tri thức (oida) và không biết về tương quan (ginôskô). Câu phủ định làm nổi bật tương phản “biết - không biết” diễn tả mạnh mẽ sự khước từ và chống đối.

Tuy nhiên bối cảnh Tin Mừng cho phép hiểu “sự không biết” của những kẻ chống đối theo hướng tích cực. Những kẻ chống đối đã bách hại Đức Giê-su và các môn đệ vì không biết. Nên Đức Giê-su và các môn đệ vẫn có tương quan với họ. Họ bách hại vì không biết, nên người tin không cắt đứt tương quan với những kẻ chống đối. Ngược lại, sứ vụ của Đức Giê-su và sứ vụ của các môn đệ là làm cho họ nhận biết rằng Chúa Cha đã sai Đức Giê-su đến thế gian (17,21.23). Khả năng “biết” của họ vẫn ở phía trước. Trong viễn cảnh này, “biết” – “không biết” là đề tài quan trọng và độc đáo của thần học Tin Mừng. Mặc khải của Đức Giê-su về những kẻ chống đối vừa giúp các môn đệ đứng vững trước khó khăn thử thách, vừa giúp các môn đệ có tương quan đúng đắn và tích cực với với những người chưa thực sự biết Đức Giê-su là ai.

IV. Động từ “làm cho biết” (gnôrizô)

Động từ “gnôrizô” (làm cho biết), xuất hiện 3 lần trong Tin Mừng ở 15,15; 17,26a.26b. Tuy ít lần nhưng có ý nghĩa quan trọng. Trong cả ba lần, chủ từ của động từ “gnôrizô” là Đức Giê-su. Phần sau trình bày hai điểm: (1) làm cho biết mặc khải (15,15); (2) tiếp tục làm cho biết (17,26).

    1. Làm cho biết mặc khải (15,15)

Trước khi bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,15b: “Tất cả những gì Thầy nghe nơi Cha của Thầy, Thầy đã làm cho anh em biết (gnôrizô).” Vậy toàn bộ mặc khải đã được Đức Giê-su trao ban cho các môn đệ rồi. Nội dung mặc khải được thuật lại trong Tin Mừng, nên không cần đi tìm mặc khải ở nơi nào khác nữa. Theo thần học Tin Mừng, sứ vụ của Đức Giê-su là “làm cho biết”. Thật vậy, Người ngỏ lời với Cha về kết quả sứ vụ ở 17,7-8: “7 Bây giờ họ (các môn đệ) biết (ginôskô) rằng: Tất cả những gì Cha ban cho Con đều là của Cha. 8 Những lời mà Cha đã ban cho Con, Con đã ban cho họ; và họ đã nhận chúng, và họ đã biết (ginôskô) thật là Con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai Con.” Như thế, tiến trình Đức Giê-su truyền đạt mặc khải và tiến trình của các môn đệ học biết mặc khải đã thành công. Họ đã biết Đức Giê-su và biết Chúa Cha, nhưng việc học hỏi chưa kết thúc.

    2. Tiếp tục làm cho biết (17,26)

Đức Giê-su đã trao ban toàn bộ mặc khải cho các môn đệ (15,15), tuy nhiên tiến trình làm cho biết mặc khải vẫn chưa kết thúc. Trong mạch văn Tin Mừng, Đức Giê-su tiếp tục “làm cho biết”. Các môn đệ và độc giả được mời gọi tiếp tục “học biết” vì không ai dám cho rằng mình đã biết tất cả mặc khải. Vì thế, trước khi bước vào cuộc Thương Khó, lời cuối cùng Đức Giê-su nói với Cha (17,25-26) vừa tóm kết sứ vụ, vừa hướng về tương lai, diễn tả qua động từ “biết” (ginôskô) và “làm cho biết” (gnôrizô). Đức Giê-su nói với Cha ở 17,25-26: “25 Lạy Cha Đấng Công Chính, thế gian đã không biết (egnô) Cha, nhưng Con, Con biết (egnôn) Cha, và những người này đã biết (egnôsan) rằng: Chính Cha đã sai Con. 26 Con đã làm cho họ biết (gnôrisa) danh của Cha, và Con sẽ còn làm cho họ biết (gnôrisô), để tình yêu mà Cha đã yêu mến Con ở trong họ và Con trong họ.” Đức Giê-su tiếp tục làm cho các môn đệ biết trong suốt cuộc đời của họ qua sự hướng dẫn, giảng dạy của Đấng Pa-rác-lê. Đấng này dạy và làm cho các môn đệ nhớ lại tất cả những gì Đức Giê-su đã nói (14,26). Chính Đấng Pa-rác-lê dẫn các môn đệ đi trong sự thật toàn vẹn (16,13). (Xem bài viết: “Ðấng Pa-rác-lê là ai?”)

Kết luận

Hai động từ “oida” và “ginôskô” (biết) cùng với động từ “gnôrizô” (làm cho biết) cho phép xây dựng thần học về quá trình truyền đạt và đón nhận mặc khải.

Đức Giê-su biết cách trọn vẹn về Chúa Cha, về các môn đệ, về đàn chiên của Người và về con người theo cả hai nghĩa: biết bằng tri thức, nhờ lý luận (oida) và biết bằng con tim, nhờ tình yêu (ginôskô). Các môn đệ cũng biết Đức Giê-su, biết Chúa Cha và biết mặc khải bằng lý trí (oida) và bằng con tim (ginôskô) nhờ sự đón nhận, lắng nghe và tin vào Đức Giê-su.

Ngược lại, những kẻ chống đối và không tin vào Đức Giê-su (những người Do Thái, những người Pha-ri-sêu, các thượng tế), đã hoàn toàn không biết Đức Giê-su và Chúa Cha. Họ không biết bằng suy luận (oida) và không biết bằng con tim (ginôskô). Tuy nhiên, Đức Giê-su luôn mời gọi họ mở lòng ra để biết. Sứ vụ của các môn đệ qua mọi thời đại là sống hiệp nhất với nhau để thế gian nhận biết và tin vào Đức Giê-su (17,21.23). Xem mục: “Thế gian không biết (oidaginôskô)” trong Yêu và ghét, Phần I, tr. 202-218.

Với động từ gnôrizô” (làm cho biết), Đức Giê-su được trình bày như là “Đấng làm cho biết”, “Đấng mặc khải”, “Đấng giảng dạy”. Nên trong suốt Tin Mừng, Đức Giê-su làm cho thính giả và độc giả biết sự thật về Thiên Chúa, sự thật về Người và sự thật về con người. Đề tài “biết – không biết – làm cho biết” mời gọi độc giả qua mọi thời đại (đã tin, chưa tin, sẽ tin) bước vào tiến trình học hỏi bằng lý trí và con tim để thực sự biết Đức Giê-su và hiểu giáo huấn của Người. Việc học hỏi này không bao giờ kết thúc vì Đức Giê-su không ngừng “làm cho biết” qua hoạt động của Đấng Pa-rác-lê, Thần Khí sự thật.


8 nhận xét:

  1. Nặc danh22:49 10/2/11

    Cám ơn cha thật nhiều về bài "Biết bằng lý trí- biết bằng con tim". Qua bài này, cha đã dày công phân tích thật mạch lạc, rõ ràng về ý nghĩa của các động từ: Oida, Ginôskô và Gnôrizô trong Tin mừng GA, làm cho người đọc nắm bắt được vấn đề chắc chắn.
    Thưa cha, phải chăng, con người có tự do, dù "biết bằng lý trí- biết bằng con tim", để biết Chúa, nhưng lúc nào cũng vẫn có con người chối từ, chống lại Chúa?

    Trả lờiXóa
  2. Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho con người món quà quý giá là sự tự do. Thiên Chúa muốn con người dùng sự tự do ấy để nhận biết Thiên Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho nhau. Trong thực tế, với lương tâm và lương tri trong sáng, nhiều người đã dùng tự do để tìm kiếm sự thật và đứng về phía sự thật, đến với Ánh Sáng và yêu mến Ánh Sáng. Nhưng cũng có người dùng tự do để lựa chọn đứng về phía bóng tối. Thực ra có thể nói, người khước từ điều mang lại hạnh phúc và sự sống đích thực cho mình và cho người khác thì không còn là người có sự tự do đích thực nữa, người ấy đã trở thành nô lệ cho thế lực đen tối.

    Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giê-su tôn trọng tự do của con người: Tự do làm môn đệ cũng như tự do để thôi không làm môn đệ nữa. Điều này đã xảy ra ở Ga 6. Sau khi nghe Đức Giê-su mặc khải về nguồn gốc và sứ vụ của Người trong diễn từ bánh sự sống (Ga 6,25-59), nhiều môn đệ nói: “Lời này chướng tai quá! Ai có thể nghe nổi?” (6,60) Rồi người thuật chuyện cho biết: “Từ lúc đó, nhiều môn đệ của Người bỏ đi và không còn đi với Người nữa.” “Nhiều môn đệ” (polloi mathêtai) bỏ đi chứ không phải một vài môn đệ. Đức Giê-su tôn trọng sự lựa chọn của con người, tuy nhiên Người không thất vọng về sự lựa chọn không tin. Đức Giê-su và các môn đệ của Người qua mọi thời đại vẫn tiếp tục sứ vụ làm cho mọi người “biết” và “tin” vào Đức Giê-su (Ga 17,21.23).

    Trả lờiXóa
  3. Thưa Cha, bài chia sẻ của cha nói về biết bằng lý trí (oida) là nhờ nhận biết qua trí thức và nhờ suy luận, còn biết bằng con tim (ginôskô)là nhờ lắng nghe, sự đón nhận và tin. Nhưng thực tế con đường từ cái đầu đến con tim rất xa, vì có rất nhiều người học cao hiểu rộng mà vẩn ở ngoài Giáo hội, đúng là 1 sự tự do và 1 chọn lựa phải không cha???

    Trả lờiXóa
  4. Từ cái đầu đến con tim có thể rất xa mà cũng có thể rất gần. Nếu chỉ biết bằng lý trí hay chỉ biết bằng con tim, con người có thể rơi vào nguy cơ xa rời thực tại cuộc sống và khó đi vào tương quan nhân vị với người khác. Thông thường “biết bằng lý trí” và “biết bằng con tim” hỗ trợ nhau để nhận ra sự phong phú và phức tạp của cuộc sống: Sự đan xen giữa ánh sáng và bóng tối, giữa niềm vui và nỗi đau...

    Trong Tin Mừng thứ tư, “biết” hay “không biết” liên quan đến “đón nhận” hay “không đón nhận”, “tin” hay “không tin” vào Đức Giê-su, nên đề tài “biết” có nghĩa thần học. Nói cách khác, theo thần học Tin Mừng thứ tư, “biết” hay “không biết” đồng nghĩa với “có” hay “không có” sự sống đời đời. Sự sống đích thực mà Đức Giê-su ban tặng cho những ai tin vào Người.

    Trả lờiXóa
  5. Nặc danh17:49 14/2/11

    Cám ơn những lời giải thích của cha thật nhiều. "Biết" không phải chỉ để hiểu, nhưng để sống. Con người không ai là chân lý, duy có Chúa là Chân, Thiện, Mỹ. Chỉ có những người cố gắng sống và làm cho đời mình chân thật hơn, chính xác hơn. Yêu ai là tin vào người đó, nhưng hành trình tin vào Chúa cũng oái oăm lắm phải vậy không, thưa cha? Vì tình yêu không có thử nghiệm, nhưng tình yêu là một thử thách.

    Trả lờiXóa
  6. Theo thần học Tin Mừng thứ tư, những câu hỏi sau đây không ngừng được đặt ra: Biết hay không biết? Tin hay không tin? “Là môn đệ” nhưng liệu có “làm môn đệ” hay không? Nghĩa là có hiểu và sống theo giáo huấn của Đức Giê-su hay không?

    Đúng là hành trình dấn thân “tin” và “làm môn đệ” Đức Giê-su vẫn ở phía trước, hành trình này thường gặp nhiều “thử thách” và “lắm oái ăm”, nhiều lúc đòi hỏi hy sinh và cả những mất mát. Nhưng nếu làm môn đệ Đức Giê-su để được sống sự sống của Thiên Chúa, để cuộc sống này có ý nghĩa, để có sức vượt qua mọi trở ngại và để có tình yêu, niềm vui và bình an sâu xa trong tâm hồn, thì cũng đáng để dấn thân. Trong thực tế, có người đã đành mất tất cả… để được tất cả…

    Trả lờiXóa
  7. Cám ơn bài viết “Biết bằng lý trí – biết bằng con tim” của Cha rất nhiều. Bằng lối diễn giải sâu sắc và phong phú, Cha đã giúp chúng con mở rộng kiến thức Thánh Kinh để việc “nghe”, “nhìn” và “học để biết” điều Đức Giêsu “nói và làm” - trở nên thú vị cho cuộc sống. Nhưng Cha phải cầu nguyện nhiều cho chúng sinh, bởi tiến trình này chắc chắn là nghiêu khê lắm lắm, bởi “đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi – mà khó vì lòng người đào bới lung tung!”.
    Tuy nhiên Cha giáo thật khéo léo để giải mã ẩn số: Đấng Pa-rác-lê dầu chỉ được nhắc đến 4 lần ở phần cuối số 5 và 6, nhưng chính Ngài, Thần Khí sự thật lại là Đấng làm sinh động tiến trình “làm cho biết” và “biết Đức Giêsu bằng con tim” một cách viên mãn., nếu chúng ta chấp nhận làm môn sinh của Đấng Pa-rác-lê.
    Ước mong những tác phẩm và bài viết của Cha giáo luôn có những giá trị mà nhiều say yêu Lời Chúa đang muốn tìm đến.

    Trả lờiXóa
  8. Cha ơi, con đọc mà "mê"... bài Cha viết.
    Có lẽ không phải vô tình mà là "hữu duyên" nên con mới "vớ" được và đọc nó trong Mùa Chay này. Hình như con chưa "biết" hay biết lơ mơ về Chúa, nên Ngài...
    Cho phép con "rinh" bài của Cha "về nhà" con để con nghiền ngẫm nha.
    Cám ơn Cha nhiều.

    Trả lờiXóa